Kinh Đại thừa
Bộ Hoa Nghiêm
PHẬT THUYẾT KINH THẦN CHÚ
ĐÀ LA NI BỒ TÁT THIÊN NHÃN
THIÊN TÝ QUÁN THẾ ÂM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trí Thông, Đời Đường
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn!
Thân trước của con có nhân duyên phước đức chẳng thể nghĩ bàn. Nay mong Đức Thế Tôn thọ ký cho con. Vì muốn khiến lợi ích cho tất cả chúng sinh nên khởi tâm đại bi hay cắt đứt tất cả sự ràng buộc cột trói, hay diệt tất cả sự sợ hãi, tất cả chúng sinh nương theo uy thần này thảy đều xa lìa nhân khổ được quả an vui.
Năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nào, ngày đêm y theo pháp thọ trì Đà La Ni Thần Chú pháp môn này thì tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, tất cả Đà La Ni Thần Chú thảy đều thành tựu.
Nay con muốn báo đáp ân đức của Thế Tôn, dù cho ở bất cứ nơi nào: Thôn xóm, thành thị, đất nước, xã ấp, tụ lạc, hoặc ở núi non, đồng bằng, rừng rú. Con thường tùy ủng hộ người đó chẳng để cho tất cả quỷ thần gây điều nhiễu hại.
Lúc ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Sau năm trăm năm, phần lớn chúng sinh: Uế nhiều, phước mỏng, chẳng thể chuyên tâm. Giả sử có kẻ thọ trì lại bị quỷ thần xâm hại.
Nay con dùng sức uy thần của Phật, rộng vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, đem lại an vui cho hàng: Trời, Người, A tu la…mà nói pháp của Đà La Ni. Trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ, con đã từng gần gũi cúng dường pháp của Đà La Ni như vậy cho đến Chư Phật quá khứ, Vị Lai, hiện tại đều nhân vào pháp môn của Đà La Ni này mà được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện chuyên niệm pháp môn của Đà La Ni này thì đời này người ấy nói năng lưu loát không bị trở ngại, thông đạt tuệ biện, là bậc đệ nhất ở trong đại chúng của tất cả Trời, người.
Người nghe vui vẻ thảy đều cúi lạy. Nói ra điều gì, mọi người đều tin nhận. Nên biết đây là sức uy thần của Chư Phật chứ chẳng phải tự lực của Ta.
Khi đó, Đức Thế Tôn khen ngợi Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: Lành thay! Lành thay! Ông hay làm lợi ích an vui cho hàng Trời, Người, A Tu La …và Tịnh Nghiệp Đạo. Nay Ta dùng Trí Ấn ấn chứng cho để ông vĩnh viễn không bị thối chuyển.
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con nhớ trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ. Con ở trong núi Bổ Đát La gặp Ma Vương thống lãnh các ma chúng gây não loạn pháp của con khiến cho Chú cú câu chữ của Thần Chú chẳng thành.
Lúc ấy, con dùng pháp của Đà La Ni này giáng phục làm cho ma ấy thảy đều lui tan, nên biết sức của Đà La Ni này chẳng thể nghĩ bàn được.
Khi đó, Quán Thế Âm Bồ Tát vì từ bi, lợi ích an vui cho Trời, người liền nói pháp của Mẫu Đà La Ni: Thiên Thủ Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Đạt Thần Chú Đệ Nhất Dùng Thủ Nhiếp Thân ấn.
1. Ná ma Tát la bà nhạ gia.
2. Ná mô hát la đát na đa la dạ dã.
3. Ná mô A di dà bà gia, đát tha yết đa gia.
4. A la ha đê, tam miệu tam bồ đà gia.
5. Ná mô A lợi gia phạt lột chỉ đế.
6. Thấp phộc la gia.
7. Bồ đề tát đỏa gia.
8. Ma ha tát đỏa gia.
9. Ma ha ca lỗ ni ca gia.
10. Ná mô ma ha Tát tha ma bà la bát đa gia.
11. Bồ đề tát đỏa gia.
12. Ma ha tát đỏa gia.
13. Ma ha ca lỗ ni ca gia.
14. Ná mô tỳ bổ la Tỳ ma gia.
15. Tố bát lị để sắt gia đa.
16. Tăng dịch gia Tố lị gia xả đa, sa ha tát la A đê lị ca.
17. Bát la bà, a phộc bà tất đa mộ lật đát duệ.
18. Ma ha mạt ni, ma cự tra, quân trà la, đà lật nê.
19. Bạc già phạt để, bát đầu ma bà noa.
20. Duệ tát la bà lộ ca, a bạt gia.
21. Xa ma na gia.
22. Tỳ tỳ đà độc khư tam ma bệ xá phệ sắt tra.
23. Tát bà tát đỏa, bạt lị mộ giả na gia.
24. Đát điệt tha.
25. Án.
26. Bộ bộ bá.
27. Ma ha lộ ca yết la khả hách.
28. Na đá ma.
29. Tất để nhĩ la.
30. Bát tra la.
31. Tỳ na xá ná, ca la gia.
32. La già đội phế lệ, ma ha mộ ha xà la.
33. Xa ma ca.
34. Xa ma ca.
35. La khất xoa ca.
36. Tát bà ba gia, đột lị yết để.
37. Bát la xá ma ca na, yết la gia.
38. Tát bà đát tha yết đa.
39. Tam ma phộc đà.
40. Na yết la, hê hê.
41. Ma ha Bồ Đề tát đỏa, phộc la đà.
42. Bát đầu ma, lộ ca, tam bộ đà.
43. Ma ha ca lô ni ca.
44. Chiết tra ma cự lăng, ngật lật đa.
45. Xả lị lan ma ni yết na ca la xà đa, bạt chiết la phệ trụ lị gia.
46. Lăng ngật lị đa, xả lị la.
47. A nhĩ đa, bà thị na.
48. Ca ma la, lăng ngật lật đa.
49. Bát la bá la na la na la giả, na ma ha xã na ná la na lị.
50. Xá đa, sa ha tát la A tỳ la sử đa, ca gia.
51. Ma ha Bồ Đề tát đỏa.
52. Tỳ đà ma, Tỳ đà ma.
53. Tỳ na xá na, Tỳ na xá na.
54. Ma ha diễn đổ lỗ ngật lệ xa ca bá tra bá bạn đá tăng sa la già la ca.
55. Bá la ca la ma địa na.
56. Bố lô sa, bát đầu ma.
57. Bố lô sa, na già.
58. Bố lỗ sa, sa già la.
59. Tỳ la, Tỳ la phệ lị xà gia.
60. Tố đản đá.
61. Bát lị phiệt lị đa.
62. Đà ma, đà ma.
63. Sai ma, sai ma.
64. Đổ lô, đổ lô.
65. Bát la xa ma gia.
66. Bát la xa tát gia.
67. Kỳ ly, kỳ ly.
68. Tỳ lê, Tỳ lê.
69. Chỉ la, Chỉ la.
70. Mụ lô, mụ lô.
71. Mụ dữu, mụ dữu.
72. Muộn già, muộn già.
73. Đổ na, đổ na.
74. Tỳ đỗ na, tỳ đỗ na.
75. Đổ lỗ, đổ lỗ.
76. Già gia, già gia.
77. Già đà gia, già đà gia.
78. Hạt sa, hạt sa.
79. Bát la ha sa, bát la ha sa.
80. Tỳ đà, tỳ đà.
81. Yết lệ xa.
82. Phộc tát na.
83. Ma ma tả.
84. Hà la, hà la.
85. Tăng hà la, tăng hà la.
86. Đổ lỗ trưng, đổ lỗ chi.
87. Ma ha mạn trà la.
88. Đổ lỗ trưng, ca la noa.
89. Xá đá bát la tế ca.
90. Bá bà sa.
91. Tỳ sa na, xá ma ca.
92. Ma ha Bồ Đề tát đỏa.
93. Bá la đà.
94. Sa ha.
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nói Đà La Ni này tên là: Bạc Già Phạm Liên Hoa Thủ Nghiêm Sức Bảo Trượng.
Đức Thế Tôn ở điện Đại Kim Cương Hoan Hỷ nói nơi khen ngợi của Tối Thắng Bồ Tát và vô lượng Trời, Rồng, Khẩn Na La … đều tồi hoại núi nghiệp chướng rộng lớn.
Nếu có người được nghe, hoặc đọc hoặc tụng Đà La Ni này thì hết thảy tất cả nghiệp chướng phiền não của người ấy đều được tiêu diệt.
Nếu có người vào buổi sáng, buổi chiều sinh tâm tôn trọng tụng Đà La Ni này, thường được Quán Thế Âm Bồ Tát luôn luôn tùy toại ủng hộ người đó, mọi việc suy nghĩ đều được thành tựu, nếu có điều cầu nguyện sẽ khiến được thành tựu.
Nên ngồi riêng ở nơi yên lặng, tâm nhớ Quán Thế Âm Bồ Tát không duyên nơi khác, tụng Đà La Ni này bảy biến thì không có nguyện nào mà chẳng được quả. Lại được tất cả chúng sinh yêu mến, chẳng bị đọa vào tất cả các nẻo ác.
Hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng thường niệm Phật như đối trước mắt thì hết thảy các tội nghiệp ác mà người ấy đã gom chứa trong vô lượng trăm ngàn câu chi đời đều được tiêu diệt. Người đó thường được đầy đủ phước của một ngàn vị Chuyển Luân Vương. Đời đời được ở cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng thời được sinh ra ở nhà quý tính tôn quý.
Nếu đem một bụm đầy hương hoa rải tán ở trước Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng Đà La Ni này bảy biến sẽ được Đại Thiên Công Đức Đại Bi Pháp Tính. Người ấy ở thế gian được thành tựu đại lực.
Nếu nhìn vào mặt Quán Thế Âm, tụng Đà La Ni chú này liền được thấy tướng mỉm cười của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhìn thấy rồi liền được Địa Ly Cấu. Hay chiếu sáng thế gian. Tức ở đời này thường được thấy Phật từ niệm nhiếp thụ.
Sau khi chết, như vào thiền định, đời đời sinh ra đều được túc mệnh trí, hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt. Nếu muốn thọ trì Đà La Ni này, nên vào ngày mười năm của tháng Bạch Nguyệt, thọ trì tám giới, mặc áo trắng sạch, ở Tháp Xá Lợi của Phật hoặc ở trước Xá Lợi của Phật thì mới được làm.
Dùng Bạch Đàn làm bùn Xoa Tô Đàn Mài Bạch. Đàn ở trên đá thành bụi nhỏ, dùng Xoa Tô Đất. Lấy mọi thứ hoa rải bên trong Đàn ấy, đốt hương thắp đèn trước Tượng Phật.
Liền ở trước Phật sinh tâm cung kính thì Quán Thế Âm Bồ Tát đi đến vào trong Đàn ấy. Thường tụng Đà La Ni này một trăm lẻ tám biến thì hết thảy tất cả tội chướng, tội nặng năm nghịch của người ấy đều được tiêu diệt. Nghiệp thân, khẩu, ý đều được thanh tịnh. Được Phật Tam muội lực, Quán đỉnh lực, Ba la mật địa lực, Thù thắng trí lực thảy đều thành tựu.
Nếu muốn cầu mưa, nên nhìn lên trời, tụng Đà La Ni này thì trời liền tuôn mưa xuống.
Nếu ngó xuống đất, tụng Đà La Ni này hay khiến cho trăm giống lúa Bách Cốc đều được thành tựu.
Nếu ở bên cạnh ao, sông, suối khô cạn, tụng Đà La Ni này nơi ấy lại được nước tràn đầy.
Nếu bị tất cả bệnh, nên tụng Đà La Ni này, dùng tay xoa lên chỗ bị đau liền được khỏi bệnh.
Ở bên cạnh người bị mất niệm, tụng Đà La Ni này thì được chính niệm trở lại.
Nếu ở cạnh người đói khát, thường nhìn vào mặt người đó, tụng Đà La Ni này thì hết thảy đói khát thảy đều trừ diệt.
Nếu muốn kết giới, nên vào trong nước ao, viết Đà La Ni này, cột buộc trên cây phướng thì trong một trăm do tuần không có các sự suy kém tai họa. Tức thành kết giới, ủng hộ thành tựu.
Ấn thứ nhất: Thiên Thủ Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Tổng Nhiếp Thân Ấn. Trước hết, đứng thẳng, thân ngay ngắn, hai bàn chân đứng ngang bằng nhau, hơi cong bàn chân phải một chút. Duỗi bàn tay trái xuống dưới, co ngón giữa và ngón vô danh dính nhau trong lòng ban tay.
Duỗi bung ngón út, ngón trỏ, ngón cái. Ngửa lòng bàn tay hướng lên trên. Tiếp theo tay phải cũng như thế, co khuỷu tay sao cho cánh tay ngang rốn, hướng lòng ban tay về phía trước. Đây là Tổng Nhiếp Thân Ấn.
Chú là: Nam Mô hạt la đát na dạ gia. Na mô A lợi gia ba lộ cát đế nhiếp phạt la gia, Bồ đề tát đỏa gia, ma ha tát đỏa gia, ma ha ca lô ni ca gia.
Đát điệt tha: A bạt đà, A bát đà, bạt lị đế, yên hê duệ hê, sa ha.
NAMO RATNA TRAYÀYA.
NAMAHÏ ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀ SATVAYA, MAHÀ KÀRUNÏIKÀYA.
TADYATHÀ: ABÀDHA, ABÀDHA PARIPATI EHYEHI SVÀHÀ.
Ấn thứ hai: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Tổng Trì Đà La Ni Ấn.
Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chắp tay để ngang trái tim, đem năm ngón tay cài chéo nhau, bên trái đè bên phải, dựng thẳng hai ngón trỏ dính đầu nhau, hai ngón cái phụ đè trên vằn thứ nhất của ngón trỏ, hơi mở lòng bàn tay. Ấn này tên là Tổng Trì Đà La Ni Pháp.
Tác Ấn này hay diệt trừ nghiệp ác của vô lượng kiếp sinh tử sau này, tội chướng được tiêu diệt hết trong một thời, ngày sau vãng sinh về Tịnh Thổ ở mười phương.
Khi xưa Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lúc sắp Thành Đạo bị Ma Vương quấy nhiễu, Ngài tác Tổng Trì Đà La Ni Ấn này mà được thiền định an vui.
Chú là: Đá điệt tha: Tát bà Đà La Ni, mạn trà la gia, yên hê di hê, bát la ma thâu đà tát đá bà gia, Sa ha.
TADYATHÀ: SARVA DHÀRANÏÌ MANÏDÏALÀYA PRAMA ‘SUDDHA SATVÀYA SVÀHÀ.
Ấn thứ ba: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát giải Thốt Thiền Định Ấn.
Trước tiên, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay để trên đỉnh đầu, co hai ngón trỏ dính đầu ngón, hai ngón cái phụ trên vằn thứ hai của ngón trỏ.
Ấn Pháp này tên là: Giải Thốt thiền Định Ấn. Chư Phật quá khứ đồng tu pháp này mà được thần thông giải thốt của thiền định. Mỗi khi dùng pháp này cúng dường sẽ được Chư Phật mười phương rõ ràng trước mắt. Chú đồng với chú trước.
Ấn thứ bốn: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thiên Nhãn Ấn. Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên đem các ngón giữa, ngón vô danh, ngón út giáp dính lưng nhau.
Dựa thẳng hai ngón trỏ dính nhau, hai ngón cái đặt nghiêng trên vằn thứ hai của ngón trỏ, mở cổ tay khoảng năm thốn, đặt ở my gian Tam Tinh. Đây gọi là Thiên Nhãn Ấn.
Tác Ấn Chú pháp môn này liền quán sát thấy quốc thổ tịnh diệu của Chư Phật trong trăm ngàn vạn ức Thế Giới. Mỗi một Cõi Phật đều được trăm vạn bốn ngàn Bồ Tát cùng làm bạn lữ với Hành giả.
Nếu chưa trải qua ba Mạn Trà La ắt chẳng được nhìn thấy Ấn Chú của Ấn pháp môn này kẻo khiến người bị tội thần thông tác pháp ấn này, thân nghiệp pháp yếu của Bồ Tát và Trí Thôn. Phàm có ước nguyện thảy đều mãn túc.
Chú là: Án Tát bà chước sô già la gia Đà La Ni, Nhân địa lị gia, sa ha.
OMÏ SARVA CAKSÏU GARJA DHÀRANÏI INDRÌYA SVÀHÀ.
Ấn thứ năm: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thiên Tý Tổng Nhiếp Ấn.
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Ngửa lòng bàn tay phải, năm ngón đều phụ nhau. Lại ngửa lòng bàn tay trái đè trên lòng bàn tay phải rồi để chạm dính trái tim.
Đây gọi là: Tổng Nhiếp Thiên Tý Ấn. Ấn này hay giáng phục ma ốn của ba ngàn đại thiên Thế Giới.
Chú là: Đát điệt tha: Bà lô chỉ đế nhiếp phạt la gia. Tát bà đột sắt tra, ô ha, mi gia, Sa ha.
TADYATHÀ: AVLOKITE’SVARÀYA SARVA DUSÏTÏA UHA MIYA SVÀHÀ.
Ấn thứ sáu: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thông Đạt Tam Muội Thành Ấn. Đứng thẳng, hai chân chạm nhau. Trước tiên dựng năm ngón tay trái cùng nắm nhau, cong khuỷu tay hướng về phía trước. Tiếp theo, tay phải cũng vậy. Co khuỷu tay hướng vào bên trong. Đây gọi là thông đạt Tam Muội Ấn.
Ấn này hay khiến cho thông đạt tất cả Tam Muội Trí Ấn, phương tiện trang nghiêm, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều nhân theo pháp này mà được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Dùng Đại Thân Ấn lúc trước.
Ấn thứ bảy: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Hô Triệu Thiên Long Bát Bộ Quỷ Thần Tập Hội Ấn. Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên tay trái lấy ngón vô danh vịn trên móng ngón cái. Tiếp theo, tay phải cũng như vậy, dựng thẳng hai ngón út và ngón giữa dính đầu nhau, hợp cổ tay cùng phụ dính nhau, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là: Án Tát bà đề bà, na già, A na lị, Sa ha.
OMÏ SARVA DEVA NÀGA ANALE SVÀHÀ.
Ấn thứ tám: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Hô Triệu Đại Phạm Thiên Vương cập và Kiều Thi Ca Lai vấn đến hỏi Pháp Ấn. Dựa theo Ấn trước, mở cổ tay để cạnh tay dính nhau, ngửa lòng bàn tay, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là: Án Ma ha phạm ma gia yên hê di hê, Sa ha.
OMÏ MÀHÀ BRÀHMÀYA EHYEHI SVÀHÀ.
Pháp Ấn chú này hay nhiếp vô lượng vô số Đà La Ni Ấn pháp môn đều đến tập hội. Nếu vào lúc Nhật Nguyệt Thực, chú vào bơ hai mươi mốt biến, dùng Ấn ấn lên bơ rồi ăn vào sẽ khiến cho người ấy thông minh, một ngày tụng vạn bài kệ. Ấn pháp môn này do Nhật Tụng Như Lai truyền cho Quán Thế Âm Bồ Tát.
Ấn thứ chín: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ý Chân Ấn. Đứng thẳng, chắp tay để ngang trái tim, co hai ngón cái song song vào trong lòng bàn tay, duỗi thẳng bốn ngón còn lại, chắp tay để ngang trái tim.
Tụng Đại Thần Chú lúc trước hai mươi mốt biến ắt quyết định được vào cung điện của Chư Thiên, dạo chơi các quốc thổ của Phật ở mười phương, trăm ngàn vạn báu tùy theo ý đã tu đều được cúng dường Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, tất cả Thánh Chúng.
Nếu có người hay tác pháp môn này, vào lúc sáng sớm thức dậy, tắm gội sạch sẽ, tác Ấn Pháp này sẽ nhìn thấy hằng hà sa Phật ở mười phương, diệt trừ nghiệp ác tội nặng trong sinh tử thuộc vô lượng kiếp sau. Vì thế cho nên khen ngợi công đức như vậy.
Ấn thứ mười: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Khất Nguyện Tùy Tâm Ấn. Dựa theo Ấn trước, co hai ngón trỏ đè trên móng hai ngón cái so cho lưng móng của ngón trỏ dính nhau. Dùng Thần Chú lúc trước. Nếu có người tùy theo ước nguyện mong cầu đều được mãn túc, quyết định chẳng thối Đạo Bồ Đề.
Ấn thứ mười một: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Nhập Diệt Tận Định Tam Muội Ấn.
Dựa theo Ấn trước, duỗi thẳng và bung ngón trỏ, ngón cái rồi mở lòng bàn tay.
Ấn này, lúc Ta Quán Thế Âm Bồ Tát ở tại nhân địa có hằng hà sa Chư Phật trao cho ta Ấn này khiến cho ta chứng đạo Bồ Đề. Tụng Đại Thần Chú.
Ấn thứ mười hai: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thỉnh Phật Tam Muội Ấn.
Dựa theo Ấn trước, chắp tay để ngang trái tim, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là: Án Tát bà bột đà tam ma gia, yên hê di hê Bát la ma thâu đà tát đỏa, Sa ha.
OMÏ SARVA BUDDHA SAMAYA EHYEHI PRAMA ‘SUDDHA SATVA SVÀHÀ.
Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Trí đặt, dựng Thập Khuỷu Man Noa La Đàn Pháp.
Tiếp, nói về Đàn Pháp. Phàm lúc tác tất cả Mạn Trà La pháp môn, cẩn thận khảo xét bản Phạn là: Quốc thổ này không có đất làm Mạn Trà La. Như nước Thiên Trúc đều lấy đất phước đức thắng thượng dùng làm Đàn Trường.
Riêng nước Bà La Môn có phương pháp chọn đất là: Nơi ở trên đỉnh núi có hình thế, đào đất bỏ gạch đá, vật bằng sành sứ, đất uế ác, vật dơ … xong rồi bắt đầu làm cho bằng phẳng bình trị. Lấy Cù Ma Di hòa với hương Xoa Tô Đất.
Nếu nước Thiên Trúc đều chọn đất phước đức thượng thắng dùng làm Đàn Trường thì nước Bà La Môn có phương pháp chọn lựa đất riêng, chẳng có thể rộng nói.
Có điều luận về đất Hán Trung Quốc này thì bậc nhất là nơi nhàn tĩnh ở núi. Ngay trên đỉnh núi, nơi có hình thế, đào đất loại bỏ gạch đá, vật sành sứ, đất ác, vật ác … xong bắt đầu nện cho bằng phẳng.
Dùng Cù Ma Di hòa với hương để Xoa Tô Đất rộng khoảng một trượng sáu thước, quá lắm là hai mươi ngón tay cho đến mười sáu ngón tay, một khuỷu tay làm thắng thượng. Thứ nhất lấy Hương Bạch Chiên Đàn mài trên đá rồi dùng bụi nhỏ Xoa Tô Mạn Trà La, dùng pháp ngũ sắc vạch giới hạn.
Đàn ấy mở bốn cửa:
Cửa Đông đặt Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương.
Trì Quốc Thiên Vương.
Cửa Nam đặt Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương.
Tăng Trưởng Thiên Vương.
Cửa Tây Đặt Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương.
Quảng Mục Thiên Vương.
Cửa Bắc đặt Tỳ Sa Môn Thiên Vương.
Đa Văn Thiên Vương.
Tiếp theo đặt để Thiên Vương ở bên phải, bên trái kèm với quyến thuộc đều ở Bản vị.
Chính giữa Mạn Trà La ấy đặt trượng Thiên Thủ Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát. Trước Tượng để cái bàn Án, trên bàn đặt Chú Pháp.
Đốt mọi loại hương, đặt bày mọi thức ăn uống, rải mọi loại hoa dùng để chúng dường, chỉ trừ vật tạp, vật hôi tanh huân tân, rượu thịt là không được cúng.
Từ ngày khác riêng làm tân hương, Tô Giả Hoa, Thụ Quả Tử. Ở trước tượng để tam bạch thức là sữa, tô lạc, mật. Đốt Đàn Hương, Trầm Hương, Tô Hợp Hương, Long Não Hương. Mỗi ngày ba thời tắm gội, thọ ba luật nghi.
Chí tâm tụng chú cúng dường Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Sáng sớm, giờ Ngọ, buổi chiều cúng dường ngày ngày chẳng gián đoạn.
Như vậy cho đến hai ngày tận ý cúng dường, xong đi đến gặp Chú Sư làm đàn tác pháp: Hô triệu tất cả đều hiện hình tượng trên đồ họa. Nay xem bản Phạn thì không có việc này.
Nên biết Chú Sư ấy hướng mặt về phương Đông tụng Chú. Kết Ấn từ ấn thứ nhất, ấn thứ hai cho đến ấn thứ mười hai Thỉnh Phật Tam Muội Ấn đâu cần lao nhọc Thiết Ấn Khắc Ấn.
Tác Ấn lúc trước một lần, tụng Chú bảy biến cho đến Ấn thứ mười hai thì xong. Nên tự phát chẳng thối lui, bền chắc. Có điều tác Pháp Hô Triệu thì tất cả đều đến, khiến phát tâm bồ đề quyết định.
Ngồi ngay thẳng tưởng tất cả Chú Thần ở ngay trước mắt, một lần không có chướng nạn chẳng được hồn tất Tụng Đại Thần Chú lúc trước mãn một ngàn không trăm tám mươi biến.
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát hóa hiện ra thân tướng diện mạo của A Nan đến hỏi hành giả: Tu theo pháp nào?
Cầu nguyện điều gì?
Câu này do thầy Trí Thông gần gũi tự cúng dường nương theo ghi câu hỏi này.
Hành giả thưa rằng: Vì cầu Pháp Đà La Ni của Bồ Đề Vô Thượng.
Nếu lúc mong được thọ ký thì chỉ nguyện phát tâm siêng năng không cầu danh lợi, ước nguyện nên cầu cho tất cả chúng sinh quán cùng một chữ, lại nguyện cho tất cả quỷ thần đều thuận phục. Được như nguyện rồi chỉ tự biết thôi chẳng được hướng về người mà truyền nói.
Nếu muốn được cầu tất cả nguyện nên làm Pháp Thủy Mạn Trà La Thủy Đàn Đàn hình trò rộng bốn khuỷu tay, đốt Trầm Thủy Hương, tụng Thần Chú lúc trước một trăm lẻ tám biến, tác Khất Nguyện Ấn thứ mười lúc trước, liền được tất cả như nguyện, mãn túc sự cầu xin.
Bản Phạn không có phần này, vì từ bên ngồi nên không như cúng dường này. Tất cả Đà La Ni pháp môn thảy đều thành tựu.
Lại có pháp: Nếu muốn được tất cả sự vui vẻ, kết Ma Ni Tùy Như Ý Châu Ấn thứ chín lúc trước, tụng Thần Chú, Chú vào Ô Ma hai mươi mốt biến rồi thiêu đốt trong lửa, liền được như ý.
Nếu muốn khiến cho các Hạt La Xà Vua chúa vui vẻ nên lấy cành cây trong vườn của Hạt La Xà Chú hai mươi mốt biến rồi ném đặt trong vườn, liền được vui vẻ.
Nếu muốn giáng phục người ác, oan gia. Nên chú vào cây Khổ Luyện hai mươi mốt biến rồi thiêu đốt trong lửa, liền được quy phục.
Lại có pháp. Nếu có Thần Quỷ, kẻ khó điều phục. Lấy An Tất Hương với hạt cải trắng, Chú hai mươi mốt biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt thì tất cả quỷ thần, loài gây bệnh tự nhiên thần phục.
Nếu có bệnh dịch lưu hành, nên làm Thủy Mạn Trà La rộng bốn khuỷu tay. Lấy Ngưu Tô tốt, chú một trăm lẻ tám biến rồi thiêu đốt trong lửa thì tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt. Lại lấy chút ít bơ Tô cho người bị bệnh dịch ăn thì lập tức khỏi bệnh.
Như nước Kế Tân có bệnh dịch hoành hành, người bị bệnh chẳng qua một, hai ngày đều chết. Có vị Bà La Môn Chân Đế đem pháp này hành, tức thì bệnh dịch liền được tiêu diệt, Hành Bệnh Quỷ Vương ra khỏi Quốc thành, nên biết rất hiệu nghiệm vậy.
Lại có pháp. Nếu nước khác xâm nhiễu, giặc cướp nghịch loạn khởi dậy. Tác Ấn thứ nhất lúc trước Tổng Nhiếp Thân Ấn, chú một trăm lẻ tám biến thì tất cả giặp cướp tự nhiên tiêu tan.
Nếu tất cả chúng sinh bị nghiệp báo, mệnh căn đã hết. Tác Diệt Tận Định Ấn lúc trước, ngày ngày cúng dường, đốt Trầm Thủy Hương, tụng chú mãn một ngàn không trăm tám mươi biến, liền chuyển được nghiệp chướng ấy. Như nước Ba La Nại có vị Trưởng Giả có một đứa con mà tuổi thọ chỉ được mười sáu năm.
Đến năm thứ mười năm, có một vị Bà La Môn đi đến cửa xin ăn nhìn thấy trưởng lão ấy buồn rầu chẳng vui, vợ chồng tiều tụy mặt không được sáng sủa.
Vị Bà La Môn hỏi rằng: Trưởng Lão! Vì sao ông chẳng vui?
Vị trưởng lão nói rõ duyên cớ, Bà La Môn đáp rằng: Trưởng lão chẳng nên buồn rầu. Tác pháp môn này một ngày một đêm sẽ được Vua Diêm La báo cho biết mệnh căn của con trưởng lão chỉ có mười sáu năm.
Giờ đã là năm thứ mười năm, chỉ còn một năm nữa. Nay gặp nhân duyên lành sẽ được thọ đến năm tám mươi mới đến tương bái.
Khi ấy vợ chồng trưởng lão hớn hở vui vẻ, đem tiền của trong nhà, cấp thí cho Tăng Chúng của Phật Pháp. Nên biết pháp này có đầy đủ Đại Thần nhiệm chẳng thể luận bàn.
Nếu đã vào trong Đại Đô Hội Tâm Mạn Trà La Kim Cương Đại Đạo Trường rồi thì chẳng cần làm Mạn Trà La. Chỉ cần kết Ấn, tụng Chú ắt không có gì chẳng được quả và mau chóng thành Phật.
Nếu có người nữ lúc sinh đẻ chịu khổ não lớn, chú vào bơ hai mươi mốt biến rồi cho ăn ắt được an vui. Sinh ra trai gái có đủ đại tướng hảo, mọi thiện trang nghiêm. Do đời trước sinh ra gốc Đức khiến cho người kính yêu, thường ở trong đời người thọ nhận khối lạc thù thắng.
Nếu có chúng sinh bị bệnh về mắt. Chú Sư dùng Bồ Tát Thiên Nhãn Ấn, Chú hai mươi mốt biến, đem Ấn ấn lên mắt thì con mắt liền khỏi bệnh. Dùng Đại Nhân duyên này cùng với người đắc được thiên nhãn, ánh sáng chiếu suốt nhìn thấy Cõi Trên, nơi mọi loại Thiên Nhân thọ hưởng khối lạc thù thắng.
Tiếp, nói về pháp vẽ tượng: Xem xét bản Phạn cẩn thận. Tạo tượng đều dùng vải trắng tốt, rộng mười khuỷu tay một trượng sáu dài hai mươi khuỷu tay ba trượng hai thân Bồ Tát làm màu vàng ánh, mặt có ba con mắt, một ngàn cánh tay trong mỗi một bàn tay có một con mắt.
Trong màu vẽ chẳng được dùng keo nấu bằng da thú. Dùng hương, sữa hòa với màu vẽ. Đầu Bồ Tát đội Thiên Quan bằng bảy báu, thân đeo anh lạc.
Lại có một bản ghi rằng: Nếu nơi này không có vải trắng tốt rộng như vậy, có thể lấy một mảnh lụa trắng vẽ thân Bồ Tát dài năm tấc, có hai cánh tay. Y theo Ấn thứ năm Thiên Tý Ấn Pháp cúng dường cũng được, không cần ngàn mắt ngàn tay. Pháp này cũng y theo bản Phạn, chỉ có trên trán Bồ Tát vẽ một con mắt liền được.
Nếu muốn cúng dường pháp môn này. Trước hết, nên vẽ tượng, cùng với pháp vẽ tượng nên làm một Mạn Trà La như pháp. Khiến người thợ vẽ thọ tám giới trai, ra vào nhà cầu một lần thì tắm rửa một lần.
Khi làm xong tượng đó, người thợ vẽ với Chú Sư lo sợ chẳng được như pháp thì đối trước tượng sám hối tội lỗi. Liền đem tượng để trong Đàn, nên tác pháp bày biện cúng dường rộng lớn, đầy đủ hai mươi mốt ngày.
Tượng Thiên Tý Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát iền phóng ra ánh sáng lớn vượt hơn mặt trời, mặt trăng. Trừ kẻ chẳng chí tâm.
Pháp Tượng Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát ấy. Trong năm Vũ Đức có vị Bà La Môn ở Trung Thiên Trúc tên là Cù Đà Đề Bà đem tượng này đến dâng hiến, vào bên trong liền chẳng ra được. Thông thầy trí thông xem xét bản Phạn chỉ nói Thiên Nhãn Thiên Tý mà không có tên dịch.
Lại căn cứ vào bản Phạn. Thời Quá khứ, Bồ Tát ở nơi Đức Tỳ Bà Thi Phật cũng hiện làm thân Giáng Phục ma, trong một ngàn con mắt mỗi mắt tuôn ra một vị Phật tức là một ngàn vị Phật đời hiền kiếp, một ngàn cánh tay mỗi cánh đều hóa ra một vị Chuyển Luân Vương tức một ngàn vị Chuyển Luân Vương. Trung Thân Giáng Ma của Bồ Tát thì thân này là tối thượng đệ nhất.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Đẳng rằng: Ta dùng thần lực của Phật, dù đến cùng kiếp cũng chẳng thể nói hết được.
Thiên Thủ Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát.
Đà La Ni Thần Chú Kinh.
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát nói Chú thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên chấn động theo sáu cách.
Sách Cứu Cánh Thiên, Ma Hê Thủ La Thiên chẳng an. Nơi ấy đều rất hoảng hốt, tất cả quỷ ác kêu la lớn tiếng chịu khổ não lớn, bỏ chạy tứ tán chẳng biết lối trốn.
Khi ấy, Hóa Thân Quán Thế Âm Bồ Tát nói với các đại chúng với các hàng quỷ thần ác rằng: Nếu chẳng tùy thuận Chú của ta mà làm điều trái ngược thì đầu sẽ bị vỡ nát.
Chú này có thể phá tan các núi, làm cho biển lớn khô kiệt. Chú này hay nghiền nát quân A tu la, ủng hộ các quốc thổ.
Chú này hay tồi phục: Tất cả các quỷ thần ác, tất cả các tú, tất cả sự độc ác, tất cả các bệnh, tất cả người ác. Chú này hay tồi phá ba mươi ba Trời đều khiến giáng phục.
Nếu có kẻ trai lành có khả năng tụng Trì Chú này thì người ấy có uy lực chẳng thể nói hết. Chú này hay khiến cho người tụng trì được hào phú tự tại, cũng hay khiến cho yêu nhớ cả đời, việc mong cầu xứng ý đều được mãn túc.
Nếu muốn giáng phục loài ma ốn nên thiêu đốt phân Cầu La Hương, tụng thân của của ta hai mươi mốt biến. Nếu muốn khiến cho tất cả mọi người yêu mến mình, chú vào cành Dương Liễu hai mươi mốt biến, ngậm trong miệng liền được yêu kính.
Nếu muốn khiến cho tự thân được biện tài, trí tuệ. Chú vào Xương Bồ một ngàn lẻ tám biến, xoa ở trên trái tim liền được biện tài vô ngại. Tác Mẫu Đà La Ni Tâm Chú Ấn.
Ấn thứ mười ba: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Biện Tài Vô Ngại Ấn.
Để hai tay cùng chung lưng rồi chắp lại, duỗi ngón cái hướng về phía trước.
Ấn này hay hộ mình hộ người. Cần phải kết giới tùy theo chốn đi đến du phương hoặc chú vào nước sạch hoặc chú vào tro sạch, đều chú bảy biến.
Ở ngay trú xứ dùng ta bụm lấy tro. Trước tiên rưới vãi ngay thân mình, sau đó hướng về bốn phương bốn góc như pháp tán rải.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị các chúng quỷ ác, võng mị tà gây hại hoặc gây rối. Lấy cành Thạch Lựu với cành Dương Liễu, âm thầm tụng chú này rồi đánh nhẹ vào người bệnh thì không có bệnh nào không khỏi.
Chú rằng: Nam Mô Tát bà bột đà, đạt ma, tăng kỳ tỳ gia. Nam Mô A lợi gia bà lô cát đế nhiếp phạt la tả, Bồ Đề tát đa bà tả. Nam Mô Bạt chiết la bà ni tả, Bồ Đề tát đá bà tả.
Đát điệt tha: Đồ tỉ, đồ tỉ ca gia. Đồ tỷ sa la xà bà la ni, Cấp bá ha.
NAMO SARVA BUDDHA, DHRAMA, SANÕGHEBHYAHÏ.
NAMAHÏ ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA.
NAMAHÏ VAJRA PÀNÏÌYA BODHISATVÀYA.
TADYATHÀ: DHUPE DHUPE KÀYA DHUPE PRAJVALANÏI SVÀHÀ.
Chú Ấn này hay giáng phục các ngoại đạo Tà kiến.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ngày ba thời: Sáng sớm, giờ Ngọ, sập tối.
Mỗi thời tụng một biến, liền cùng với mọi thứ cúng dường mười ức Chư Phật không có sai khác, vĩnh viễn chẳng thọ thân nữ, sau khi chết xa lìa hẳn tam đồ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh liền được vãng sinh về Cõi Phật A Di Đà.
Đức Như Lai trao tay, quán đỉnh ngươi đừng có có sợ hãi, đến sinh vào nước của ta thì thân này chẳng bị chết đột ngột, chẳng bị quỷ thần được dịp thuận tiện hãm hại.
Ấn thứ mười bốn: Bồ Tát Phá Đại Thiên Thế Giới Diệt Tội Ấn. Đứng thẳng, hướng tay trái về phía trước giương cánh tay, hướng về phía trước bung mở thẳng năm ngón.
Tiếp theo, tay phải: Co ngón cái vào trong lòng bàn tay, nắm bốn ngón còn lại thành quyền để trên lỗ tay trái, nên tụng Thần Chú, đưa ngón trỏ qua lại.
Ấn này kết riêng ba thời, một thời tụng bảy biến, hay diệt năm tội nghịch, bốn tội nặng. Đối với tất cả chúng sinh khởi tâm từ bi liền hay thiêu đốt gốc rễ của tất cả tội, sau khi thân này diệt liền được gặp Phật.
Ở cõi Phật ấy làm Chuyển Luân Thành Vương, lại được Đà La Ni tên là Vô Lượng Vô Tận Tạng, lại được Tam Muội tên là Trí Đẳng, lại được hai mươi tám loại tướng tốt của Thân.
Thân này chẳng bị bệnh về mắt, lưỡi, tai, mũi …cho đến tất cả bệnh tật trong thân thảy hay diệt trừ. Nếu có tội nghiệp lúc trước cũng được tiêu diệt.
Nếu gặp Trời hạn hán thời lấy Ô Ma Tử hòa với cỏ có hạt nhỏ, hạt mè, mỡ làm thành viên, Chú một trăm lẻ tám biến ném vào trong nước liền được trời mưa.
Nếu mưa quá nhiều, lấy lúa gạo đốt ra tro, lấy hạt Cà Độc Dược Mạn Tinh Tử, mỡ hòa làm viên, chú một trăm lẻ tám biến ném vào trong nước thì mưa liền ngưng.
Ấn thứ mười năm: Bồ Tát Giáng Phục Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Ma Oán Ấn. Đem năm ngón tay cài chéo nhau, bên trái đè bên phải nắm chặt thành quyền rồi để dính trên đỉnh đầu. Tụng Thần Chú liền được giáng phục.
Nếu tác pháp này, hướng về trước Tháp Xá Lợi hai mươi chín ngày đêm lấy Bạch Đàn Hương làm bột Xoa Tô Đất tạo Mạn Trà La.
Trong đó rải mọi thứ hoa, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tay bưng lò hương thiêu đốt trầm thủy hương. Ngồi hướng mặt về phía Đông, chú một ngàn lẻ tám biến. Đây là công năng tối sơ.
Lại lấy hạt cải, mè đen trộn lẫn nghiền thành bụi. Dùng ba ngón tay nhúm lấy chút ít, chú vào một biến rồi quang vào trong lửa. Như vậy bảy ngày mỗi ngày một trăm lẻ tám biến. Sau đó việc làm thảy đều thành tựu.
Ấn thứ mười sáu: Bồ Tát Quảng Đại Vô Úy Ấn.
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên, đem tay phải nâng đầu cùi trỏ tay trái. Tay trái cũng vậy. Ở trước Tháp Xá Lợi, tụng Thần Chú một trăm lẻ tám biến liền được vô úy thí nơi chúng sinh.
Lại lấy Hồi hương, hạt cải trắng, Xương Bồ, Xả Đa Bà Lị. Đem nhóm vật này ném vào trong lửa thiêu đốt. Lúc đốt trong lửa nên ở trước Tượng Phật hoặc ở nơi thanh tịnh tụng chú ba mươi hai biến, dùng hương hoa cúng dường thì Chú Pháp thảy đều thành tựu, bao nhiêu việc đã làm thảy đều được quả.
Nếu chú khác không ứng nghiệm. Dùng Chú này chú vào cũng đều thành tựu. Nếu muốn cầu mộng, tụng Chú này và tác Ấn rồi ấn lên mắt, liền tùy theo chỗ muốn thấy đều được nhìn thấy trong mộng.
Nếu người không có phước, cầu gì cũng không được. Một ngày tụng ba biến Chú, mãn bảy ngày thì hết thảy sự mong cầu đề thành tựu tất cả.
Bấy giờ, Bồ Tát ở Sa Kiệt La Long Cung Hải Hội nói pháp, nhìn thấy các chúng Rồng chịu khổ não lớn. Vì thương các chúng Rồng nên cứu độ chúng sinh bị khổ não đều được xa lìa các khổ, không có ốn hại. Khi ấy, Long Nữ dâng một viên ngọc quý, giá trị bằng Thế Giới Ta Bà.
Vì cầu pháp nên nói rằng: Hãy vì con mà rộng nói về cách xa lìa các khổ nạn.
Lúc đó, Thủy Tinh Bồ Tát vì muốn lợi ích hộ Trì Chú này nên nói chú là: Ấn thứ mười bảy: Thủy Tinh Bồ Tát Hộ trì Thiên Nhãn Ấn Chú.
Tỳ ma lê, ma ha tỳ ma lê, úc ha lê, ma ha úc ha lê, hưu ma lê, ma ha hưu ma lê, tát ha lê chỉ lê đệ, cấp bà ha.
VIMALE MAHÀ VIMALE UD ÀRI MAHÀ UD ÀRI UD BALE MAHÀ UD0BALE SAHARI KIRTTI SVÀHÀ.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ở tại nơi đi đến Du Phương thọ trì Thiên nhãn Thiên Tý Bồ Tát pháp này, ta sẽ thường tùy hộ vệ cho đến các quyến thuộc của ma cũng không dám gây não loạn.
Nếu có người bị nạn cấp bách, nước khác xâm lấn, trộm cướp, nghịch loạn. Nên dùng chỉ ngũ sắc kết gút, tụng Chú hai mươi mốt biến, một lần chú một lần thắt gút rồi đeo ở cánh tay trái.
Lại đem ngón vô danh, ngón giữa, ngón trỏ của tay phải nắm quyền, đè quyền trên móng ngón cái, giương ngón út, chỉ về phương có giặc, tụng Chú bảy biến thì giặc đều lui tan chẳng dám làm hại.
Bấy giờ, Bồ Tát ở trong núi Tuyết nói pháp, quán thấy nhân dân trong nước Dạ Xoa La Sát chỉ ăn máu thịt của chúng sinh, không có tâm lành.
Bồ Tát vì muốn lợi ích nên dùng phương tiện giáo hóa, vận sức thần thông đi đến nước đó, hiện thân Thiên Nhãn Thiên Tý Giáng Phục Ma, bày sự thành tựu, kết Mẫu Đà La Ni Ấn. Lúc đó Vua nước La Sát đi đến cầu xin đảnh lễ ta, ta dùng Ấn Thành tựu ấn cho liền được Đạo Vô Thượng.
Ấn thứ mười tám: Bồ Tát Thành Tựu Ấn.
Đứng thẳng, hai chân song song nhau, chắp tay để ở ngang trái tim, đem ngón út cùng cài chéo nhau, bên trái đè bên phải, tụng Thần Chú hai mươi mốt biến thì mọi thứ đều được thành tựu. Nếu cầu cho chúng sinh đang bị khổ não trong sáu nẻo, nên dùng Luân Ấn.
Đem mười ngón tay đều vịn nhau, mở cổ tay, mở bên trong lòng bàn tay. Liền mở mười ngón tay cách nhau chừng một thốn. Tức là Bồ Tát ở trong sáu nẻo luân hồi, cứu độ các nạn khổ. Dùng Ấn này chuyển hồi thảy đều được lìa khổ.
Ấn thứ mười chín: Bồ Tát Thành Chính Đẳng Giác Ấn. Ngồi Kiết già. Trước tiên duỗi năm ngón tay trái ngửa lòng bàn tay đặt trên đầu gối trái. Lại duỗi năm ngón tay phải, úp bàn tay đè trên đầu gối phải.
Ấn này đồng với Pháp Diệt Tận Ấn. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều đồng với Ấn này được Phật Bồ Đề Ấn hay trừ tất cả nghiệp chướng.
Nếu Tọa Thiền mà các pháp chẳng hiện tiền, nên bảy ngày bảy đêm ở chốn A Luyện Nhã, tụng Đà La Ni này và Ấn Pháp này.
Chí tâm niệm Phật, ngày đêm sáu thời sám hối liền được các pháp hiện tiền và đạt được phước nhiều vô lượng vô biên chẳng thể tính đếm.
Ấn thứ hai mươi: Bồ Tát Hô Triệu Tam Thập Tam Thiên Ấn. Trước tiên đem bốn ngón của tay trái nắm quyền, lại dùng tay phải nắm ngón cái trái cũng như nắm quyền khiến cho ngón cái trái ở trong hổ khẩu của tay phải và ló đầu ngón. Đưa ngón trỏ phải qua lại.
Chú là: Án Câu trí, Câu trí, Câu gia lợi, già lợi, già lợi, gì la lệ, Tô bà ha.
OMÏ KUTÏÌ KUTÏ KUNÕJALI JRÌ JRÌ JARJAYA SVÀHÀ.
Đà La Ni Ấn Chú này chẳng thể luận bàn. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện lúc muốn nằm ngủ, tụng chú này một trăm linh tám biến thì điều ước nguyện trong tâm đều được thấy biết trong giấc mộng.
Nếu có thể ngày ngày tụng Chú này cũng hay diệt tất cả tội, phát tâm Bồ Đề. Người đó đêm tối nằm mộng, dần dần tăng rộng đều được tốt lành cho đến mộng thấy Đức Như Lai ở dưới cây Bồ Đề thọ ký cho thành Đạo, cho đến Chư Thiên Thích Phạm thường đến thị vệ.
Ấn thứ hai mươi mốt: Bồ Tát Hộ Triệu Thiên Long Bát Bộ quỷ thần Ấn. Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên co ngón cái trái vào trong lòng bàn tay, bốn ngón còn lại nắm quyền để dính trên trái tim. Tiếp theo, tay phải cũng vậy, đem tay phải để cạnh lỗ tai phải, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là: Nam Mô Ni càn đà Nam Mô A lợi xà ba đà, Cấp bà ha Nam Mô A lợi xà la, cấp bà ha yên hế di hế, cấp bà ha.
NAMO NIKANÏTÏHA.
NAMO ALI JAVÀDI SVÀHÀ.
NAMO ALI JARA SVÀHÀ.
EHYEHI SVÀHÀ.
Ấn Chú này. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì đọc tụng sẽ biết túc mệnh bảy đời, rắn độc chẳng thể cắn gây thương, thuốc độc tự nhiên trừ dao gậy chẳng thể hại, Vua cũng chẳng có thể giận, trọn kiếp chẳng thọ khổ địa ngục. Nếu tụng Chú này thời hai mươi tám bộ quỷ thần đều đến ngồi bên cạnh người Trì Chú, nghe tụng Chú.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị dính quỷ mị. Dùng chỉ trắng làm sợi dây chú, một lần chú một lần thắt gút, như vậy bốn mươi chín gút rồi cột dưới cổ họng người bệnh thì bệnh đó liền trừ.
Nếu trong nước có tai dịch lưu hành, người trong nước chết rất nhiều. Nên lấy hoa sen dưới ao vườn của nhà Vua, một trăm lẻ tám cây, cứ một cây hoa đều chú một biến rồi ném vào trong lửa cho đến hoa sen thì tai nạn liền trừ.
Ấn thứ hai mươi hai: Bồ Tát Giải Thốt Ấn. Ngồi kiết già. Trước tiên, tay trái đem ngón giữa, ngón cái vịn đầu nhau, ngửa chưởng hướng lên trên bung duỗi ba ngón còn lại rồi đặt trên đầu gối trái. Tiếp dùng tay phải cũng như thế, úp bàn tay trên đầu gối phải.
Tụng Thần Chú hai mươi mốt biến thì điều ước nguyện thảy đều mãn túc, sự khổ não của các hữu tình thảy đều giải thốt.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện tạo đủ mười tội ác, năm tội nghịch nhiều như bụi nhỏ của đất phủ trên cõi Diêm Phù Đề, mỗi một hạt bụi thành một kiếp. Người đó gây tội nếu một ngàn tội phải đọa địa ngục muôn kiếp chịu khổ không có kỳ ra.
Kẻ trai lành, người nữ thiện ấy hay ở trước Tượng Xá Lợi, ngày mười năm của tháng Bạch nguyệt, một ngày một đêm chẳng ăn, kết Ấn tụng Chú mãn một trăm lẻ tám biến thì các tội như trên thảy đều tiêu diệt. Nếu chẳng tiêu diệt thật không hề có chuyện ấy.
Ấn thứ hai mươi ba: Bồ Tát Tự Tại Thần Túc Ấn. Đứng thẳng. Trước tiên đem tay trái nắm ngón chân cái trái như nắm quyền. Tiếp, tay phải nắm trên lưng cổ tay trái, tụng Thần Chú bảy biến ắt muốn đi xa ngàn dặm chẳng có gì là khó. Tụng Chú đừng để phát ra tiếng.
Ấn thứ hai mươi bốn: Bồ Tát Thần Biến Tự Tai Ấn. Trước tiên, tay trái đem ngón cái vịn trên móng ngón út. Tiếp tay phải cũng như thế. Ba ngón còn lại đều bung thẳng, hợp cổ tay dính nhau, đặt ở trên đỉnh đầu, tụng Thần Chú hai mươi mốt biến đều được du hành tự tại.
Ấn thứ hai mươi năm: Thỉnh Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm Vương Ấn Chú. Chắp hai tay lại, giữa trống rỗng. Hợp cổ tay, đưa hai ngón trỏ qua lại Ấn này là Đệ Nhất Căn Bản Khải Thỉnh Ấn.
Chú là: Án A lỗ lực, đế sái, lộ ca, vĩ xả gia Tát bà thước đổ lô, bát la ma đà na, ca la gia Hàm phán, Sá ha.
OMÏ AROLIK TRAILOKA VIJAYA SARVA ‘SATRÙ PRAMADANA KARÀYA HÙMÏ PHATÏ SVÀHÀ.
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát nghe Đức Phật nói xong, vui vẻ tin nhận, tác lễ rồi lui ra.
***