Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Thập địa

PHẬT THUYẾT KINH THẬP ĐỊA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thi La Đạt Ma, Đời Đường
 

PHẨM BẢY

PHẨM ĐỊA VIỄN HÀNH
 

Lúc ấy, đại chúng tâm hoan hỷ

Trong hư không rải báu thành mây

Phát ra vô số âm thanh diệu

Thưa bậc Tối thắng thật thanh tịnh

Thông hiểu thật nghĩa trí tự tại

Thành tựu trăm ngàn ức công đức

Tựa như hoa sen không ô nhiễm

Lợi ích chúng sinh dạy hạnh sâu

Thiên Vương Tự Tại ở hư không

Phóng ánh sáng lớn chiếu thân Phật

Lại rải mây hương thật vi diệu

Cúng dường bậc trừ ưu phiền não

Lúc ấy, đại chúng đều vui mừng

Cùng nhau hết lời xưng tán nêu

Chúng con nghe công đức địa này

Nghe rồi đạt được lợi ích lớn

Thiên Nữ Cõi Trời cũng vui thích

Hòa tấu ngàn vạn thứ âm nhạc

Nhờ nơi thần lực của Như Lai

Trong không vang ra tiếng vi diệu

Oai nghi, vắng lặng không gì sánh

Điều phục thế gian nên cúng dường

Vượt qua tất cả các cõi nước

Trở lại thế gian dạy đạo mầu

Tuy hiện vô số loại hình tướng

Biết rõ thân này không sở hữu

Khéo dùng ngôn ngữ diễn nói pháp

Không chấp văn tự, tướng âm thanh

Qua lại vô số trăm ngàn cõi

Dùng vật quý báu cúng dường Phật

Trí tuệ tự tại không chấp trước

Không còn vọng tưởng Phật hay ta

Tuy là siêng năng độ chúng sinh

Nhưng không phân biệt mình và người

Dù đã thành tựu trí rộng lớn

Nhưng không chấp vướng các pháp lành

Vì thấy tất cả các cõi nước

Lửa tham, sân, si luôn thiêu đốt

Diệt trừ hết thảy các vọng niệm

Phát tâm đại bi, sức tinh tấn

Chư Thiên, Thiên Nữ ở khắp nơi

Cúng dường mọi vật và khen ngợi

Thảy đều an trụ trong yên lặng

Chiêm ngưỡng Thế Tôn mong nghe pháp

Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt lại thưa

Đại chúng ở đây tâm thanh tịnh

Xin hãy thương xót diễn giảng cho

Hành tướng an trụ địa thứ bảy.

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng nói với chúng Bồ Tát: Phật Tử! Bồ Tát đã tu tập đầy đủ pháp lành địa thứ sáu, muốn nhập địa thứ bảy, phải dùng mười trí tuệ phương tiện vi diệu.

Mười pháp ấy là gì?

1. Khéo tu tập Tam Muội không, vô tướng, vô nguyện để chuẩn bị đầy đủ hành trang phước đức rộng lớn.

2. Chứng nhập pháp không ngã, không thọ mạng, không nơi hướng đến, nhưng không bỏ việc tu hành bốn tâm vô lượng.

3. Tu tập phước đức rộng lớn và thực hành hạnh giải thoát tăng thượng, nhưng đối với các pháp không hề chấp trước.

4. Đã vượt khỏi ba cõi nhưng phát nguyện làm trang nghiêm ba cõi.

5. Đã đạt vắng lặng rốt ráo, xa lìa hết thảy lửa phiền não, nhưng vì muốn hóa độ tất cả chúng sinh nên nguyện dập tắt lửa tham, sân, si.

6. Biết rõ các pháp như mộng huyễn, bóng, tiếng vang, trăng trong nước, ảnh trong gương, tự tánh không hai, nhưng vẫn dùng nghiệp hạnh làm vô số việc.

7. Biết các cõi hư không nhưng vẫn nguyện thực hành làm trang nghiêm các cõi.

8. Biết rõ pháp thân Phật, tánh như hư không nhưng vẫn phát nguyện trang nghiêm thân bằng các tướng tốt.

9. Biết rõ âm thanh Chư Phật vốn vắng lặng, không thể nói năng nhưng vẫn phát nguyện trang nghiêm tất cả tiếng vần sai biệt.

10. Biết Chư Phật trong một niệm hiểu rõ về ba đời nhưng vẫn phát nguyện tùy thuận an nhập, để chỉ bày các loại tướng về kiếp số quán xét tâm ý chúng sinh.

Phật Tử! Nhờ mười tuệ phương tiện vi diệu này, Bồ Tát từ địa thứ sáu nhập địa thứ bảy. Bồ Tát trụ ở địa thứ bảy này, vào trong vô số cõi chúng sinh, vô số Cõi Phật, thành tựu hạnh nghiệp hóa độ của chúng sinh.

Vào trong vô số cõi trói buộc, Cõi Phật thanh tịnh, cõi tánh sai khác của các pháp, nhập vào trí Chánh Đẳng Giác của Phật, nhập vào vô lượng kiếp số sai khác, nhập vào sự thông hiểu ba đời của Phật, nhập vào tướng giải thoát sai khác của chúng sinh, nhập vào vô số Phật thị hiện sắc thân danh hiệu, nhập vào sự sai khác về trình độ của chúng sinh.

Nhập vào vô số âm thanh của Phật làm cho chúng sinh vui vẻ, nhập vào vô lượng tâm hành sai khác của chúng sinh, nhập vào vô lượng trí hạnh rộng lớn của Phật, nhập vào vô số sự tin hiểu hóa độ của Thanh Văn, sự diễn thuyết nhập đạo của Phật, sự tu chứng thành tựu của Độc Giác. Nhập vào vô lượng pháp, thâm nhập nơi trí sâu xa của Phật thuyết giảng, nhập vào vô lượng hạnh nguyện của Bồ Tát, nhập vào sự tu tập pháp đại thừa của Phật đã nêu bày.

Bồ Tát suy xét như vậy với vô số Cõi Phật cho dù trải qua vô số kiếp cũng không thể tính đếm được. Ở nơi cảnh giới của Phật ấy, Ta sẽ tạo vô số Cõi Phật bằng tâm không phân biệt, không khác với phân biệt, không công dụng sẽ làm cho đầy đủ. Do vậy, Bồ Tát siêng năng tu tập không gián đoạn, không thiếu sót, quán trí thông đạt. Vì không loạn động nên gọi là an trụ trí tuệ phương tiện siêu vượt.

Bồ Tát trong nháy mắt hiện khởi đạo mầu mà không rời định, luôn phát khởi chánh trí, dù đi đứng nằm ngồi, cả khi nằm mộng cũng xa lìa các triền cái trói buộc, ngăn che chướng ngại, oai nghi hợp ý, nghĩ đúng, chẳng bao lâu thành tựu mười pháp Ba la mật.

Vì sao?

Vì Bồ Tát phát tâm đều lấy đại bi làm gốc, hồi hướng sự tu chứng Phật Pháp để cầu đạt trí Phật.

Tu tập các căn lành, như bố thí cho chúng sinh, để cầu trí Phật là bố thí Ba la mật.

Lấy tâm từ bi làm gốc, không tổn hại chúng sinh là an nhẫn Ba la mật.

Siêng năng phát triển pháp lành là tinh tấn Ba la mật.

nhất thiết trí hiển hiện, không tán loạn là thiền định Ba la mật.

Hiển hiện pháp nhẫn, biết tánh của các pháp không sinh diệt là bát nhã Ba la mật.

Phát khởi vô lượng trí là phương tiện Ba la mật.

Phát khởi hậu trí là nguyện Ba la mật.

Tất cả ngoại đạo ma chướng không thể hủy hoại được là lực Ba la mật.

Kiến lập các pháp như thật là trí Ba la mật.

Phật Tử! Bồ Tát an trụ nơi địa viễn hành, sớm có đầy đủ mười Ba la mật, lại đạt bốn nhiếp pháp, bốn gia hạnh, ba mươi bảy phẩm Bồ Đề, ba môn giải thoát, như vậy là Bồ Tát sớm đầy đủ tất cả pháp giác phần.

Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Phật Tử! Chỉ có Bồ Tát địa thứ bảy mới đầy đủ tất cả pháp giác phần hay là Bồ Tát ở các địa khác cũng đều đầy đủ?

Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: Phật Tử! Trong mười Địa, Bồ Tát đều đầy đủ các pháp giác phần, nhưng Bồ Tát địa thứ bảy thì thù thắng nhất.

Vì sao?

Phật Tử! Vì Bồ Tát ở đây đạt đầy đủ hành nghiệp gia hạnh, lại dần dần nhập trí hạnh thần thông. Còn Bồ Tát ở địa thứ nhất có đầy đủ nguyện nhưng chỉ là một phần giác. Địa thứ hai chỉ trừ sạch cấu uế.

Địa thứ ba thì chánh nguyện phát triển, đạt được pháp sáng. Địa thứ tư thì đi vào cõi đạo. Địa thứ năm tùy thuận hạnh nghiệp của chúng sinh. Địa thứ sáu thì hội nhập nơi Phật Pháp. Bồ Tát địa thứ bảy thì mới đầy đủ các pháp giác phần.

Vì sao?

Vì Bồ Tát từ địa thứ nhất đến địa thứ bảy mới phát khởi phần trí gia hạnh. Bồ Tát địa thứ tám mới thành tựu hạnh vô công dụng.

Phật Tử! Ví như có hai cõi: Thuần tịnh, nhiễm tịnh. Người ở hai cõi này khó qua lại được, trừ những bậc có sức thần thông. Cũng vậy, nẻo hành hóa của Bồ Tát còn xen tạp nhiễm tịnh thì không thể vượt được, trừ bậc có thệ nguyện lớn, có sức của trí tuệ phương tiện, thần thông lớn.

Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Hành nghiệp của Bồ Tát ở bảy địa trước bị phiền não nhiễm ô sao?

Bồ Tát Kim Cang Tạng đáp: Phật Tử! Bồ Tát từ địa thứ nhất đã hành trì xa lìa hẳn phiền não, hồi hướng về đạo bồ đề bằng sức tăng thượng. Song nói một cách bình đẳng thì Bồ Tát địa thứ bảy vẫn chưa được gọi là vượt khỏi phiền não.

Phật Tử! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương, cỡi voi sáu Cõi Trời, đi khắp mọi nơi chốn, hiểu rõ về mọi sự nghèo khổ, tạp nhiễm, không hề bị các thứ họa hoạn cấu nhiễm nhưng chưa được gọi là vượt địa vị người. Nếu bỏ thân đó, sinh vào cõi Phạm Thiên, đi xe cõi Phạm Thiên, dạo khắp ngàn cõi, thị hiện oai đức rộng lớn của Phạm Thiên, mới được gọi là vượt địa vị người.

Phật Tử! Bồ Tát cũng thế. Từ địa thứ nhất, ngồi xe Bồ Tát Ba la mật đa, đi khắp mọi nơi, biết rõ về mọi thứ lỗi lầm nhiễm ô của chúng sinh nhưng không bị cấu nhiễm là vì đi theo chánh pháp. Song đến địa thứ bảy, vẫn chưa được gọi là vượt khỏi phiền não khổ đau.

Chỉ khi nào không còn dụng công, từ địa thứ bảy nhập địa thứ tám, ngồi xe thanh tịnh của Bồ Tát, đi khắp các cõi, biết rõ vế các thứ lỗi lẫm nhiễm ô của chúng sinh nhưng không bị cấu nhiễm. Nhờ siêu vượt mà Bồ Tát an trụ ở đấy. Bồ Tát ở địa thứ bảy, phần nhiều đều vượt khỏi các phiền não như tham. Bồ Tát tu tập ở địa Viễn hành này không thể nói là có hay không có phiền não.

Vì sao?

Vì tất cả phiền não không còn hiện khởi nên không thể nói là có phiền não. Do mong cầu Trí Phật vẫn chưa đạt được nên không thể nói là không có phiền não. Bồ Tát trụ ở địa này đã thành tựu Định tăng thượng, làm thanh tịnh thân, ngữ, ý, nghiệp, vượt tất cả nghiệp ác mà Như Lai đã hủy bỏ, luôn tu tập mười nghiệp lành mà Như Lai đã nêu dạy.

Tất cả nghiệp của thế gian như đã nói ở địa thứ năm, thì Bồ Tát ở địa thứ bảy dùng vô công dụng, tự nhiên chuyển được, làm thầy cho tam thiên Đại Thiên Thế Giới cùng noi theo. Ngoài Như Lai và các Bồ Tát địa thứ tám ra, các Đại Bồ Tát nơi ý lạc gia hạnh đều không ai sánh bằng.

Tất cả Thiền định, Tam Muội, thần thông, giải thoát, đều được hiện khởi. Đó là do tu tập đạt được chứ không do quả dị thục mà có, giống như Bồ Tát ở địa thứ tám. Bồ Tát này khi trụ nơi địa Viễn hành thứ bảy, trong tâm niệm đã thành tựu đầy đủ trí tuệ phương tiện nhiệm mầu hành trì viên mãn các pháp giác ngộ.

Bồ Tát này lại được các tam muội như: Khéo phân biệt, tư duy thật nghĩa, trí tuệ thù thắng, phân biệt tạng thật nghĩa, hiểu rõ nghĩa lý, khởi trụ căn lành kiên cố, pháp môn trí thần thông, pháp giới sáng tỏ, lợi ích thù thắng của Như Lai, an trụ tạng thật nghĩa về sinh tử, Niết Bàn.

Lúc này, Bồ Tát lấy thần thông nơi trí lớn làm gốc, nhập đủ cả trăm vạn tam muội, làm thanh tịnh địa này. Vì tu tập tam muội bằng trí tuệ phương tiện vi diệu gồm đủ đại bi, vượt địa Thanh Văn, Độc Giác nên hiển hiện trí tuệ quán sát. Bồ Tát hành hóa nơi thân, khẩu, ý nghiệp, luôn tùy thuận lưu chuyển nhưng không chấp tướng. Thanh tịnh rốt ráo, hiển Vô sinh pháp nhẫn.

Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Vô lượng thân, ngữ, ý nghiệp của Bồ Tát khởi lên ở địa thứ nhất, không vượt Thanh Văn, Độc Giác thừa sao?

Bồ Tát Kim Cang Tạng đáp: Phật Tử! Tuy những vị ấy có hành động, nhưng đều do oai lực tăng thượng của Phật Pháp chứ chẳng phải do tự quán sát bằng trí giác ngộ của mình. Vì Bồ Tát ở địa thứ bảy, quán xét cảnh giới bằng trí giác ngộ của mình nên không thể sánh được.

Phật Tử! Ví như con của Vua vừa sinh nơi hoàng cung, có đầy đủ tướng của Vua, vượt hơn các quan lại, nhưng đó là do có quyền lực của Vua cha, chẳng phải do khả năng của mình. Đến khi lớn khôn, thành tựu mọi học thuật, mới dùng trí lực của mình để hiện bày, thâu phục, vượt hơn quan lại.

Phật Tử! Bồ Tát cũng thế mới phát tâm vượt hơn Thanh Văn, Độc Giác là do trí tăng thượng rộng lớn, chẳng phải là do trí tuệ giác ngộ của chính mình. Bồ Tát địa thứ bảy, an trụ bằng trí tuệ, mới vượt hạnh nghiệp Thanh Văn, Độc Giác.

Phật Tử! Bồ Tát trụ ở địa thứ bảy này, tuy đạt thân, ngữ, ý nghiệp sâu xa, vắng lặng, vô hành, đã không lìa bỏ lại luôn siêng năng, mạnh mẽ hành trì mọi việc.

Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Bồ Tát địa nào có thể nhập diệt định?

Bồ Tát Kim Cang Tạng đáp: Bồ Tát ở địa thứ sáu đã có thể nhập diệt định. Bồ Tát trụ địa thứ bảy thì tâm luôn ở trong diệt định nhưng không thể nói là đã tác chứng diệt định. Vì vậy, Bồ Tát này gọi thành tựu nơi thân, ngữ, ý nghiệp là rất khó, rất lạ quý, nghĩa là luôn an trụ trong thực tế mà không tác chứng tịch diệt.

Phật Tử! Ví như có người đi thuyền lớn vào biển cả, thuyền đã tốt mà người ấy còn biết rõ các hình trạng ở dưới nước, theo thủy lộ nên hoàn toàn không bị tại nạn.

Phật Tử! Bồ Tát địa thứ bảy cũng thế, đi thuyền đến bờ giải thoát, an trụ trong thực tế mà không tác chứng tịch diệt. Bồ Tát đạt trí ấy rồi, tu tập bằng trí tam muội nên phát sinh trí mầu nhiệm. Dùng diệu lực của phương tiện lớn, khéo léo thị hiện sinh tử, mà tâm ý luôn an trụ Niết Bàn. Quyến thuộc luôn vây quanh nhưng thường ưa thích xa lìa. Dùng sức của thệ nguyện thọ sinh trong ba cõi, nhưng không bị nhiễm pháp thế gian.

Tuy luôn an trụ nơi vắng lặng, nhưng thường tạo đủ phương tiện quyền biến. Dù ở trong lửa, vẫn không bị thiêu đốt. Luôn tùy thuận trí Phật, thị hiện ở trong cảnh giới ma, đi trong đường ma, thực hành pháp của ma và làm việc của ngoại đạo, nhưng tâm không bỏ Phật Pháp.

Tùy thuận hạnh nghiệp của thế gian, mà luôn vui thích an trụ trong pháp xuất thế, làm mọi việc trang nghiêm, vượt hàng Trời, Người, Rồng, Thần, Dạ Xoa, Quỷ, Đế Thích, Phạm Thiên, hộ thế Thiên Vương, nhưng luôn vui thích pháp giải thoát.

Phật Tử! Bồ Tát thành tựu trí tuệ như vậy, an trụ nơi địa Viễn hành, nhờ sự hiểu biết và nguyện lực rộng lớn, nên được gặp vô số trăm ngàn câu chi Phật.

Gặp được Phật, Bồ Tát dùng tâm ưa thích tăng thượng rộng lớn, cung kính, tôn trọng, phụng hành, cúng dường những thứ y phục, thức ăn, ngọa cụ, y dược và dụng cụ sinh hoạt, dâng lên các Bồ Tát những vật diệu lạc, cung kính với đại chúng Tăng già, đem thiện căn này hồi hướng đến đạo quả vô thượng bồ đề, tôn trọng Chư Phật, luôn cung kính, tán thán. Nghe chánh pháp rồi thọ trì, nhờ vào trí tuệ của đẳng trì không điên đảo, sáng suốt mà tu hành, nhằm thành tựu và hộ trì Thánh giáo của Chư Phật.

Tất cả hàng Thanh Văn, Độc Giác nếu có vấn nạn vẫn không bị khuất phục. Đạt pháp nhẫn thanh tịnh, đem lại lợi ích cho chúng sinh. Bồ Tát trụ địa này, trải qua vô số kiếp, căn lành càng thêm thanh tịnh.

Phật Tử! Ví như thợ vàng làm đồ trang sức, đính thêm ngọc ma ni thì càng sáng đẹp.

Phật Tử! Bồ Tát trụ ở địa Viễn hành thứ bảy này, các căn cũng thế, nhờ trí tuệ phương tiện nên căn lành của Bồ Tát địa này càng thanh tịnh. Tất cả căn lành của Thanh Văn, Độc Giác không thể sánh được.

Phật Tử! Cũng như ánh sáng mặt trời, không bị ánh sáng của trăng, sao che lấp, còn làm khô cạn các thứ bùn lầy nhơ bẩn ở châu Thiệm bộ.

Phật Tử! Căn lành của Bồ Tát này cũng thế, tất cả căn lành của hàng Thanh Văn, Độc Giác không sánh được, còn làm khô hết mọi thứ phiền não cấu uế của chúng sinh. Trong mười Ba la mật, Bồ Tát tu nhiều về Phương tiện Ba la mật, còn các Ba la mật khác thì tùy sức mà tu tập.

Phật Tử! Đó là lược nói về hành tướng của Bồ Tát địa Viễn hành thứ bảy. Bồ Tát khi trụ ở địa này, thọ sinh thường làm Thiên Vương cõi Tha Hóa Tự Tại, dạy pháp phương tiện quán cho Thanh Văn, Độc Giác, khiến chúng sinh an nhập vào chánh tánh ly sinh.

Làm các việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều không rời suy nghĩ về Phật, về Pháp, về Tăng, về Bồ Tát, về hạnh Bồ Tát, về bờ giải thoát, về các trụ địa, về pháp không sợ, về Phật lực, về pháp Bất cộng của Phật, cho đến không rời suy nghĩ về hành tướng thắng diệu tương ưng với trí nhất thiết trí.

Lại nguyện: Ở trong chúng sinh, ta luôn là người đứng đầu, thù thắng, vi diệu, vô thượng. Là người dẫn đường. Là tướng soái, cho đến nguyện làm chỗ nương tựa để đạt trí nhất thiết trí.

Nếu siêng năng tu tập, thì sớm đạt trăm ngàn câu chi na dữu đa Thế Giới, đi khắp trăm ngàn câu chi na dữu đa cõi nước, soi chiếu trăm ngàn câu chi na dữu đa cảnh giới, thành tựu trăm ngàn câu chi na dữu đa loại chúng sinh, sống trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, nên biên vực trước sau đều vào trong trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, suy xét rõ trăm ngàn câu chi na dữu đa pháp, thị hiện trăm ngàn câu chi na dữuđa thân, mỗi thân hiện trăm ngàn câu chi na dữu đa Bồ Tát bạn.

Nhờ nguyện lực thù thắng, nên mọi việc đi lại, ánh sáng thần thông, thân tướng, mắt, cảnh giới, âm thanh, hành động, trang nghiêm, sự hiểu biết, giữ gìn, tạo tác… dù trải qua trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp cũng không thể nói hết.

Lúc ấy, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn lập lại ý nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:

Đầy đủ hạnh lành địa thứ sáu

Tu tập phương tiện, ấn trí tuệ

Hạnh thù thắng, bất cộng, đạo tiên

Do đấy hội nhập địa thứ bảy

Đủ ba giải thoát chứa phước đức

Thông đạt vô ngã, tu từ bi

Phước đức và pháp thường sung mãn

Hành Ba la mật, không chấp trước

Xa lìa ba cõi nhưng trang nghiêm

Vắng lặng tịch diệt, không phiền não

Biết pháp như huyễn, phân biệt nghiệp

Hiểu cõi như không, vui trang nghiêm

Biết thân không tướng, tu tướng tốt

Rõ tiếng không lời, luôn diễn thuyết

Sớm đạt giác ngộ hiện các tướng

Người trí đạt được địa thứ bảy

Quán sát thông đật các pháp này

Lợi ích an lạc mọi hữu tình

Đi vào tất cả các cõi nước

Hóa độ vô số loại chúng sinh

An nhập kiếp số, pháp, cõi, nước

Thấu rõ tâm ý và tâm hành

Giảng pháp ba thừa không hạn lượng

Cứ thế giáo hóa các chúng sinh

Nhanh chóng phát khởi đạo song hành

Đi đứng nằm ngồi luôn tu tập

Hồi hướng cả về đạo bồ đề

Luôn nghĩ đủ mười Ba la mật

Ban cho chúng sinh là bố thí

Dứt hoặc là giới, không hại:

Nhẫn luôn cầu pháp lành là tinh tấn

An trụ đạo pháp là thiền định

Đạt Vô sinh nhẫn: Tuệ rốt ráo

Khởi trí vô lượng là phương tiện

Không ai hàng phục được là

Lực hậu trí phát sinh đó là: nguyện

Như thật trụ pháp chính là trí

Thành tựu đầy đủ các pháp này

Sơ địa đầy đủ nguyện giác phần

Nhị địa xa lìa tâm cấu nhiễm

Tam địa nguyện lớn pháp sáng suốt

Trụ địa thứ tư an lập đạo

Thứ năm tùy thuận nghiệp thế gian

Thứ sáu an nhập pháp sâu xa

Trụ địa thứ bảy luôn phát sinh

Đầy đủ pháp giác của Chư Phật

Nhờ đó khiến nhập địa thứ tám

Thanh tịnh tất cả mọi hành nghiệp

Địa này khó vượt trừ bậc trí

Dùng trí nguyện lớn mới vượt khỏi

Như hai cõi nước tịnh và nhiễm

Phải nhờ thần thông mới qua lại

Lại như Luân Vương không nhiễm vướng

Nhưng chưa gọi là vượt loài người

Những ai an trụ địa thứ tám

Mới vượt cảnh giới của tâm thức

Như sinh Phạm Thế vượt làm người

Tựa sen trong bùn không nhiễm ô

Đại này tuy vượt những hoặc nghiệp

Chẳng được gọi có hay không hoặc

Vì không phiền não hiện khởi ra

Mong cầu trí Phật mà chưa đạt

Tất cả học thuật của thế gian

Kinh sách luận nghị đều thông tỏ

Thiền định, tam muội cùng thần thông

Vì nhờ tu tập nên thành tựu

Bồ Tát an trụ địa thứ bảy

Vượt qua hết thảy hạnh nhị thừa

Sơ địa nhờ nguyện, đây nhờ trí

Ví như con Vua đủ oai lực

Thành tựu sâu xa vẫn tu đạo

Luôn nhập diệt định mà không chứng

Như người đi thuyền vào biển lớn

Giữa nước không bị nước nhận chìm

Đủ phương tiện tuệ hành công đức

Tất cả thế gian không biết được

Cúng dường Chư Phật tâm sáng suốt

Như dùng ngọc báu đính vàng ròng

Bồ Tát địa này trí tuệ sáng

Như nắng mặt trời khô nước ái

Được làm Thiên Vương cõi Tự Tại

Giáo hóa chúng sinh tu chánh trí

Do sức tinh tấn và mạnh mẽ

Đạt được trăm ngàn câu chi na

Tam muội, gặp Phật, cũng như vậy

Nguyện lực tự tại sẽ hơn đây

Đó là trí tuệ và phương tiện

Thanh tịnh của địa viễn hành này

Tất cả Chư Thiên và loài người

Thanh Văn, Độc Giác không lường được.

***