Kinh Đại thừa

Bộ Hoa Nghiêm

PHẬT THUYẾT KINH THẤT PHẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Thiên, Đời Tống
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Cây Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, có chúng đại Bí Sô khi ôm bát ăn, đến Đạo Tràng Ca Lý Lê, cùng nhau ngồi suy nghĩ: Trong thời quá khứ có Đức Phật nào xuất hiện?

Dòng họ, danh hiệu, tuổi thọ ngắn dài của các vị ấy như thế nào?

Sau khi suy nghĩ như vậy, họ hỏi nhau nhưng vẫn không thể biết được. Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết các Bí Sô này suy nghĩ sự việc ấy. Ngài rời chỗ ngồi, đến Đạo Tràng Ca Lý Lê, ngồi kiết già. Các Bí Sô cúi đầu lạy sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, chắp tay cung kính, nhất tâm chiêm ngưỡng Phật.

Thế Tôn hỏi: Này các Bí Sô!

Các thầy đang nghĩ về chuyện gì?

Bí Sô thưa: Chúng con suy nghĩ: Trong thời quá khứ có vị Phật nào ra đời, với dòng họ, danh hiệu, tuổi thọ ngắn dài như thế nào, nhưng không ai biết được.

Phật hỏi các Bí Sô: Các thầy muốn biết không?

Các Bí Sô thưa: Nay đã đúng lúc, ngưỡng mong Thế Tôn dạy cho chúng con.

Phật dạy: Các thầy lắng nghe!

Ta sẽ nói về việc đó. Thời quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp có Phật Tỳ Bà Thi, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian.

Cách đây ba mươi mốt kiếp, có Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian.

Vào kiếp thứ sáu trong hiền kiếp có Phật Câu Lưu Tôn, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian.

Vào kiếp thứ bảy, có Phật Cây Na Hàm Mâu Ni, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian.

Vào kiếp thứ tám, có Phật Ca Diếp Ba, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện trong thế gian.

Vào kiếp thứ chín, ta là Phật Thích Ca Mâu Ni, xuất hiện ở thế gian, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.

Trong kiếp quá khứ, Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù giảng dạy Thi La, là giới luật thanh tịnh, và công hạnh để thành tựu trí tuệ tối thượng.

Trong hiền kiếp, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Cây Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp Ba, cũng giảng dạy luật nghi thanh tịnh và pháp thiền định giải thoát. Pháp của ta giảng dạy cũng như vậy.

Này các Bí Sô! Phật Tỳ Bà Thi, thời quá khứ, thuộc Dòng Sát Đế Lỵ, phát tâm tịnh tín, mà xuất gia, Thành Đạo Chánh Giác. Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù cũng thuộc Dòng Sát Đế Lỵ. 

Phật Câu Lưu Tôn, Phật Cây Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp thuộc Dòng Bà La Môn. Ta sinh trong Cung Vua Tịnh Phạn, dòng Sát Đế Lợi.

Bấy giờ, để trùng tuyên ý nghĩa này, Thế Tôn bèn nói bài kệ:

Ta nói đời quá khứ,

Vào kiếp chín mươi mốt.

Có Phật Tỳ Bà Thi,

Xuất hiện trong thế gian.

Trong kiếp ba mươi mốt,

Thi Khí, Tỳ Xá Phù.

Bậc Chánh Đẳng Giác ấy,

Thuộc Dòng Sát Đế Lỵ.

Như Lai Câu Lưu Tôn,

Cây Na Hàm, Ca Diếp.

Cả ba Thế Tôn này,

Đều thuộc Bà La Môn.

Ta ở cõi Diêm Phù,

Con Đức Vua Tịnh Phạn.

Tu giác ngộ thành Phật,

Thuộc Dòng Sát Đế Lỵ.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí Sô:

Các thầy hãy lắng nghe: Ta lại nói về tộc họ của bảy Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác. Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, thuộc họ Kiều Trần. Phật Câu Lưu Tôn, Phật Cây Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp Ba, thuộc họ Ca Diếp. Thích Ca Như Lai thuộc họ Cù Đàm.

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Như Lai Tỳ Bà Thi,

Thi Khí, Tỳ Xá Phù.

Cả ba vị Phật này,

Đều mang họ Kiều Trần.

Như Lai Câu Lưu Tôn,

Cây Na Hàm, Ca Diếp.

Cả ba vị Phật này,

Đều mang họ Ca Diếp.

Ta ở cõi Diêm Phù,

Sinh trong cung Tịnh Phạn.

Nên mang họ Cù Đàm,

Xuất gia chứng bồ đề.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe!

Ta nói về tuổi thọ dài ngắn của bảy Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.

Phật Tỳ Bà Thi, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện trong thế gian, sống tám vạn tuổi.

Phật Thi Khí, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện trong thế gian, sống bảy vạn tuổi.

Phật Tỳ Xá Phù, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện trong thế gian, sống sáu vạn tuổi.

Phật Câu Lưu Tôn, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện trong thế gian, sống bốn vạn tuổi.

Phật Cây Na Hàm Mâu Ni, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện trong thế gian, sống ba vạn tuổi.

Phật Ca Diếp Ba, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác xuất hiện trong thế gian, sống hai vạn tuổi.

Ta hóa độ chúng sanh trong đời năm trược, sống một trăm tuổi.

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Như Lai Tỳ Bà Thi

Thi Khí, Tỳ Xá Phù

Đức Phật Câu Lưu Tôn

Cây Na Hàm, Ca Diếp.

Chư Phật khi ra đời,

Đều theo tuổi thọ người.

Tám vạn rồi bảy vạn,

Sáu vạn xuống bốn vạn.

Ba vạn đến hai vạn,

Phật Thích Ca cũng vậy.

Xuất hiện, đời năm trược,

Loài người thọ trăm tuổi.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí Sô: Các thầy lắng nghe!

Nay ta nói về tên, danh hiệu cha mẹ, Quốc Gia, thành phố của bảy vị Phật Như Lai.

Phụ Vương của Phật Ty Bà Thi tên là Mãn Độ Ma, mẹ tên Mãn Độ Ma, Kinh Thành cũng tên Mãn Độ Ma.

Phụ Vương Thi Khí Như Lai tên A Rô Noa, mẹ cũng tên A Rô Noa. Kinh Thành tên A Rô Phược Đế.

Phụ Vương Tỳ Xá Phù Như Lai tên Tô Bát La Để Đô, mẹ tên Bát La Bà Phược Để. Kinh Thành tên A Nỗ Bát Ma.

Cha của Phật Câu Lưu Tôn tên Dã Nghê Dã Na Đa, hiệu Sát Mô Sát Ma, mẹ tên Vĩ Xá Khư, Kinh Thành tên Sát Ma.

Cha của Phật Cây Na Hàm Mâu Ni tên Dã Nghê Dã Na Đỗ, mẹ tên Ô Đa La. Vua hiệu Thâu Bộ, Kinh Thành tên Thâu Bà Phược Đế.

Cha của Ca Diếp Như Lai tên Tô Một Ra Hạ Ma, mẹ tên Một Ra Hạ Ma Ngu Bát Đa. Vua hiệu Ngật Lý Kế, Kinh Thành tên Ba La Nại.

Nay, ta bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Phụ Vương ta tên Tịnh Phạn, mẹ tên Ma Ha Ma Da. Kinh Thành tên Ca Tỳ La.

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Bản sinh của Chư Phật,

Tỳ Bà Thi Như Lai.

Cha tên Mãn Độ Ma,

Mẹ Mãn Độ Ma Đế.

Kinh Đô thành quách lớn,

Cũng tên Mãn Độ Ma.

Lúc đó nước ấy giàu,

Nhân dân sống an lạc.

Phật Thi Khí Thế Tôn,

Phụ Vương A Rô Noa.

A Rô Noa Phược Đế,

Là tên của mẹ Phật.

Thành Ngài ở cùng tên,

A Lỗ Phược Đế.

Nhân dân sống phồn thịnh,

Giàu có thường an ổn.

Tỳ Xá Phù Như Lai,

Phụ Vương và mẹ tên.

Tô Bát Ra Đế Đô,

Bát Ra Bà Phược Đế.

Kinh Thành của nước ấy,

Tên A Nỗ Bà Ma.

Thời đó sống an ổn,

Không có các tai hại.

Thế Tôn Câu Lưu Tôn,

Tên thân phụ của Ngài.

Dã Nghê Dã Na Đa,

Mẹ tên Vĩ Xá Khư.

Vua Sát Mô Sát Ma.

Kinh Thành tên Sát Ma.

Nhân dân sống thời ấy,

Tôn trọng điều hiền thiện.

Cây Na Hàm Mâu Ni,

Dã Nghê Dã Na Đổ,

Là tên cha của Ngài.

Mẹ tên Ô Đa Ra.

Quốc Vương hiệu Thâu Bộ,

Thành Thâu Bà Phược Đế.

Cao rộng thật tráng lệ.

Chúng sanh không cực nhọc.

Cha Phật Ca Diếp Ba,

Tô một ra hạ ma.

Mẹ tên gọi Một Ra,

Hạ Ma Ngu Bát Đa.

Quốc Vương Ngật Lý Kế,

Thành đô Ba La Nại.

Chúng sanh trong thành ấy,

Ngày đêm sống an ổn.

Nay chỗ sinh của ta,

Phụ Vương hiệu Tịnh Phạn.

Mẹ Ma Ha Ma Da,

Thành tên Ca Tỳ La.

Như trên phân biệt rõ,

Tên cha mẹ, nước, thành.

Của bảy Phật Như Lai,

Chánh Đẳng Giác như vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Ta nói về đệ tử Thanh Văn của bảy vị Phật Như Lai.

Đệ tử đại trí của Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Khiếm Noa Để Tả, là bậc Đệ Nhất trong Chúng Thanh Văn.

Đệ tử đại trí của Thi Khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Bộ Tam Bà Phược, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh Văn.

Đệ tử đại trí của Tỳ Xá Phù Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Dã Tâu Đa, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh Văn.

Đệ tử đại trí của Câu Lưu Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Tán Nhĩ Phược, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh Văn.

Đệ tử đại trí của Cây Na Hàm Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Tô Rô Nỗ Đa La, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh Văn.

Đệ tử đại trí của Ca Diếp Ba Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Bà Ra Đặc Phược Nhạ, là bậc đệ nhất trong chúng Thanh Văn.

Ta, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, có đệ tử đại trí tên Xá Lợi Phất là bậc đệ nhất trong chúng Thanh Văn.

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Tỳ Bà Thi Như Lai,

Có đệ tử đại trí,

Tên Khiếm Noa Để Tả.

Phật Thi Khí Thế Tôn,

Có đệ tử đại trí,

Tên Bộ Tam Bà Phược.

Tỳ Xá Phù Như Lai,

Có đệ tử đại trí,

Tên Dã Thâu Đa Ra.

Câu Lưu Tôn Như Lai,

Có đệ tử đại trí,

Tên là Tán Nhĩ Phược.

Cây Na Hàm Mâu Ni,

Có đệ tử đại trí,

Tô Rô Noa Đa Ra.

Phật Thế Tôn Ca Diếp,

Có đệ tử đại trí,

Bà ra Đặc Phược Nhạ.

Nay ta, Ứng Chánh Giác,

Có đệ tử đại trí,

Tên là Xá Lợi Phất.

Bảy vị Phật Tử ấy,

Đều đệ nhất đại trí,

Ở trong Chúng Thanh Văn.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Ta nói về đệ tử thị giả của bảy vị Phật Như Lai.

Thị giả của Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên A Thâu Ca.

Thị giả của Thi Khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên Sát Ma Ca Rô.

Thị giả của Phật Tỳ Xá Phù, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Ô Ba Phiến Đổ.

Thị giả của Phật Câu Lưu Tôn, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Một Đề Du.

Thị giả của Phật Cây Na Hàm Mâu Ni, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên To Rô Đế Lý Dã.

Thị giả của Ca Diếp Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Tát Lý Phược Mật Đát La.

Nay Ta, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, có thị giả tên A Nan Đà.

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Phật Tử A Thâu Ca,

Và Sát Ma Ca Rô.

Với Ô Ba Phiến Đổ,

Tôn Giả Một Đề Du.

To Rô Đế Lý Dã,

Tát Lý Phược Mật Đát La.

Bí Sô A Nan Đà,

Đều là thị giả Phật.

Thường hành tâm từ bi,

Thành tựu được chánh định.

Thông đạt các pháp tướng,

Đầy đủ đại trí tuệ.

Đa văn lại thông minh,

Là bậc thầy đại pháp.

Đệ nhất ở trong chúng.

Danh tiếng khắp mười phương,

Trời người đều quy kính.

Sức tinh tấn kiên cố.

Đoạn sạch các phiền não.

Chứng quả không sinh diệt.

Thị giả Phật Thế Tôn,

Tự thân thường được lợi.

Thành tựu chơn Phật Tử,

Của Chư Phật là vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Ta nói về chúng Thanh Văn do bảy Phật Như Lai hóa độ.

Hội thuyết pháp thứ nhất của Tỳ Bà Thi Như Lai có sáu vạn hai ngàn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ hai có mười vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ nhất của Thi Khí Như Lai có mười vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ hai có tám mươi ức Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ nhất của Tỳ Xá Phù Như Lai có tám vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ hai có bảy vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hội thuyết pháp thứ ba có sáu vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Câu Lưu Tôn Như Lai thuyết pháp một hội có bốn vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Phật Cây Na Hàm Mâu Ni thuyết pháp một hội có ba vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Phật Ca Diếp thuyết pháp một hội có hai vạn Bí Sô đắc quả A La Hán.

Hiện nay, ta thuyết pháp một hội có một ngàn hai trăm năm mươi Bí Sô đắc quả A La Hán.

Thế Tôn lập lại bằng kệ:

Tỳ Bà Thi Như Lai,

Thi Khí, Tỳ Xá Phù,

Thế Tôn Câu Lưu Tôn,

Cây Na Hàm, Ca Diếp,

Và Thích Ca Mâu Ni.

Khi Chư Phật ra đời,

Chúng Thanh Văn được độ,

Số có bảy mươi ức,

Chín vạn thêm ba ngàn,

Hai trăm năm mươi người,

Đều chứng A La Hán,

Không tái sinh đời sau.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, cho đến, nay ta xuất hiện ở thế gian, Trụ Trì giáo hóa, nêu giảng giáo pháp, giáo hóa, dẫn dắt các hữu tình, về giới hạnh luật nghi, thọ trì y bát, cầu chứng bồ đề, không có pháp nào sai khác nhau cả.

Thế Tôn nói kệ:

Kiếp quá khứ đến nay,

Tỳ Bà Thi các Phật.

Chúng Bí Sô được độ,

Thành tựu đại trí tuệ.

Dốc tu nơi chánh đạo,

Các phần pháp bồ đề.

Năm căn và năm lực,

Bốn niệm, bốn thần túc.

Bảy giác, tám Thánh đạo,

Cùng với Tam Ma Địa.

Các căn được tịch tĩnh,

Thông đạt nơi Pháp Tạng.

Khai Ngộ các quần sinh,

Tuệ mạng được tăng trưởng.

Trong hiền kiếp như vậy,

Thật là chưa từng có.

Phật dùng trí đại bi,

Tự giác và giác tha.

Đại thần thông uy đức,

Được nêu bày như vậy.

Thế Tôn nói kệ xong, cùng các Bí Sô rời chỗ ngồi, trở về vườn Cấp Cô Độc. Qua đêm ấy, đến sáng sớm hôm sau, các chúng Bí Sô rời thất của mình, đi đến Đạo Tràng Ca Lý Lê.

Họ hỏi nhau về việc các đức Như Lai trong thời gian quá khứ nhập đại Niết Bàn, xa lìa hý luận, đoạn trừ hẳn luân hồi, không còn lỗi lầm. Bậc đại trượng phu như vậy, có đại trí tuệ như vậy, trì giới như vậy, thiền định như vậy, giải thoát như vậy, uy đức như vậy, chủng tộc như vậy, giáng thế lợi sinh, thật ít có, không thể nghĩ bàn.

Thế Tôn biết ý nghĩ của các Bí Sô, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Đạo Tràng Ca Lý Lê, ngồi kiết già, hỏi chúng Bí Sô: Các thầy bàn luận về việc gì?

Các Bí Sô bạch: Chúng con nghe nói Đức Như Lai trong quá khứ nhập đại Niết Bàn, xa lìa các hý luận, cắt đứt luân hồi, không còn lỗi lầm. Bậc đại trượng phu như vậy, có trí tuệ như vậy, trì giới như vậy, thiền định như vậy, giải thoát như vậy, uy đức như vậy, chủng tộc như vậy, giáng thế lợi sinh, rất là ít có, không thể nghĩ bàn.

Phật hỏi: Này các Bí Sô! Tại sao các thầy nói những điều như thế?

Bí Sô bạch Phật: Phật có pháp giới thanh tịnh, chứng chân giác trí, hiểu biết tất cả, ngưỡng mong giảng giải.

Phật dạy: Này các Bí Sô! Các thầy lắng nghe, ta sẽ nói về việc ấy. Vào thời quá khứ, có Quốc Vương lớn hiệu Mãn Độ Ma. Vương phi của Vua tên Mãn Độ Ma Đế.

Khi ấy, Phật Tỳ Bà Thi từ Cung Trời Đâu Suất giáng sinh xuống cõi Diêm Phù, nhập vào bụng mẹ, an trú trong thai, phóng ra ánh sáng chiếu khắp các cõi trong thế gian, không còn chỗ tối tăm, đến cả các cảnh giới ác, địa ngục, nơi ánh sáng mặt trời, mặt trăng không thể chiếu tới. Ánh sáng của Phật đến đâu, nơi ấy bỗng sáng rực lên.

Hữu tình ở những nơi ấy được trông thấy nhau, liền lên tiếng: Tại sao ở đây lại có chúng sanh khác?

Thế Tôn nói kệ:

Bồ Tát từ Đâu Suất,

Khi xuống cõi Diêm Phù.

Như mây bay gió thổi,

Nhanh chóng vào thai mẹ.

Thân phóng ánh sáng lớn,

Chiếu rực Cõi Trời người.

Địa ngục núi Thiết Vi,

Đều không còn tối tăm.

Tất cả chúng đại tiên,

Các cảnh giới Cõi Phật.

Đều tập hợp nhau lại,

Hộ vệ thân mẹ Ngài.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe.

Khi Đại Bồ Tát ấy từ Trời Đâu Suất giáng sinh xuống Diêm Phù, vào thai mẹ, Dạ Xoa Bộ Ma lớn tiếng tuyên bố: Vị Đại Bồ Tát có uy đức lớn, bậc đại trượng phu này, bỏ thân Trời, thân A tu la, ở trong thai mẹ để thọ thân người. 

Lần lượt Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma cho đến các Cõi Trời Phạm Phụ v.v… nghe lời này, đồng xướng lên: Bồ Tát Giáng Thần ở trong thai mẹ, tất cả phải vân tập đến.

Thế Tôn nói kệ:

Bồ Tát từ Đâu Suất,

Khi Giáng Thần thai mẹ.

Đại Dạ Xoa Bộ Ma,

Tuyên bố: Đức Bồ Tát.

Từ bỏ thân Cõi Trời,

Và thân A tu la.

An trú trong thai mẹ,

Để thọ báo thân người.

Tứ Thiên, Đao Lợi Thiên,

Dạ Ma và Đâu Suất.

Cho đến cõi Phạm Thiên,

Đều nghe rõ việc này.

Bồ Tát xuống nhân gian,

Thân sắc vàng vi diệu.

Chư Thiên đều tập hợp,

Tâm ý rất vui mừng.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí Sô:

Các thầy lắng nghe: Khi Đại Bồ Tát ấy từ Trời Đâu Suất giáng sinh xuống Diêm Phù, có bốn Đại Thiên Tử đầy đủ uy đức, thân mặc áo giáp, tay cầm cung đao, hộ vệ Bồ Tát, loài người và phi nhân đều không thể gây tổn hại.

Thế Tôn lặp lại bằng kệ:

Khi Bồ Tát giáng sinh,

Đế Thích, Trời Đao Lợi.

Sai Tứ Đại Thiên Vương,

Đều đủ đại uy lực.

Thân mang áo giáp vàng,

Tay cầm cung đao thương,

Luôn luôn hộ vệ Ngài.

Loài La Sát, Phi Nhân.

Không dám gây não hại,

Ngài an trú thai mẹ.

Như ở cung điện lớn,

Thường thọ các diệu lạc.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy từ Cõi Trời Đâu Suất giáng sinh xuống cõi Diêm Phù, ở trong thai mẹ. Thân Ngài thanh tịnh tỏa ánh sáng rực rỡ như ngọc Ma Ni. Tâm ý mẹ Ngài an vui không có phiền não.

Thế Tôn nói kệ:

Bồ Tát ở trong thai,

Thanh tịnh không vết nhiễm.

Trong sáng như Lưu Ly,

Quý báu như Ma Ni.

Ánh sáng chiếu thế gian,

Như mặt trời không mây.

Thành tựu đệ nhất nghĩa,

Xuất sinh trí tối thượng.

Khiến mẹ không ưu não,

Thường làm các việc thiện.

Hữu tình đều quy ngưỡng,

Ngự ngôi Sát Đế Lợi.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo các Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy từ Trời Đâu Suất giáng sinh xuống cõi Diêm Phù, ở trong thai mẹ. Chưa từng nghe người mẹ có dục nhiễm và tham đắm năm trần, sắc v.v…

Thế Tôn nói kệ:

Bồ Tát ở trong thai,

Khiến tâm mẹ thanh tịnh.

Không nghe tên nhiễm ô,

Xa lìa tội năm dục.

Đoạn trừ gốc tham ái,

Không có các khổ não.

Thân tâm thường an ổn,

Luôn luôn được an lạc.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy từ Trời Đâu Suất giáng sinh xuống cõi Diêm Phù ở trong thai mẹ. Người mẹ tự thọ trì năm giới cận sự.

Một, không sát sanh.

Hai, không trộm cắp.

Ba, không dâm dục.

Bốn, không nói dối.

Năm, không uống rượu.

Mẹ Bồ Tát sinh Ngài nơi hông bên phải.

Sau đó mệnh chung, sinh lên Cõi Trời.

Thế Tôn nói kệ:

Bồ Tát ở trong thai,

Mẹ Ngài giữ năm giới.

Hông phải sinh Đồng Tử,

Khi sinh không khổ não.

Cũng như Trời Đế Thích,

Thọ năm dục vi diệu.

Sau đó, khi mạng chung,

Liền sanh lên Cõi Trời.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông phải mẹ, quả đất chấn động. Thân Ngài màu sắc như vàng ròng không có uế nhiễm, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả cảnh giới trong thế gian. Những cảnh giới ác, nơi tối tăm như địa ngục bỗng nhiên sáng rực. Những chúng sanh nơi đó cũng trông thấy nhau.

Tất cả đều như ngỡ ngàng nói: Tại sao nơi đây lại có chúng sanh khác?

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ Tát giáng sinh,

Cả quả đất chuyển động.

Thân thể như vàng ròng,

Không nhiễm những trần cấu.

Đại thần thông, uy đức,

Chiếu sáng khắp nơi nơi.

Chúng sinh nơi tối tăm,

Đều được nhìn thấy nhau.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, mẹ Ngài không mệt nhọc, không ngồi không nằm. Bồ Tát với đại uy đức của Bậc Đại Trượng Phu, tâm không mờ tối, chân không đạp đất, có bốn Đại Thiên Vương đỡ thân Đồng Tử.

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ Tát giáng sinh,

Tâm mẹ không tán loạn.

Không ngồi cũng không nằm,

Tự tại và vui thích.

Uy đức Đại Trượng Phu,

Tâm lìa các ám muội.

Tứ Thiên bồng chân Ngài,

Chân Ngài không đụng đất.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, thân thể Ngài thanh tịnh như ngọc lưu ly quý báu không bị dính những vật bất tịnh như máu, mủ, nước dãi. Cũng như ngọc Ma Ni, như y phục của Trời Kiều Thi Ca, tất cả bụi bặm không thể dính vào.

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ Tát giáng sinh,

Thân thể Ngài thanh tịnh.

Xa lìa những bất tịnh,

Như máu mủ nước dãi.

Như y phục Vua Trời,

Như ngọc quí Ma Ni.

Tâm sạch thân sáng rực,

Bụi bặm không dính được.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, có hai vị Thiên Tử từ trên hư không, tuôn hai vòi nước một mát, một ấm để tắm rửa Đồng Tử.

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ Tát giáng sinh,

Hai vị Trời trên không.

Tắm rửa thân đồng tử,

Bằng hai vòi nước sạch.

Ấm, mát cho thích nghi,

Biểu thị tròn phước tuệ.

Thành tựu đại vô uý,

Xem khắp cả chúng sinh.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải. Ngài đủ ba mươi hai tướng, hình dáng đoan nghiêm, mắt thanh tịnh thấy xa mười do tuần.

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ Tát giáng sinh,

Các tướng đều đầy đủ.

Mắt trong lại đoan nghiêm,

Thấy xa mười do tuần.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, nhìn đến Cõi Trời Đao Lợi. Thiên Đế Thích cũng thấy Đồng Tử này chính là thân Phật, liền cầm lọng trắng che thân Đồng Tử. Lạnh nóng gió bụi, tất cả các vật xấu không xâm phạm được.

Thế Tôn nói kệ:

Khi Bồ Tát mới sinh,

Nhìn xa hơn Đao Lợi.

Đế Thích cũng thấy Ngài,

Vội cầm lọng trắng lớn.

Đến che thân cho Ngài,

Lạnh nóng gió bụi nắng.

Và các thứ độc hại,

Không thể xâm phạm được.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, mẫu hậu, nhũ mẫu và dưỡng mẫu cùng các cung nhân vây quanh để giữ gìn, che chở, tắm rửa, xoa chất thơm, hầu hạ Ngài chu toàn.

Thế Tôn nói kệ:

Khi Đồng Tử mới sinh,

Ba người mẹ nuôi dưỡng.

Cùng với các cung nhân,

Thường vây quanh bên Ngài.

Tắm rửa xoa hương thơm,

Khiến Ngài luôn an ổn.

Hầu cận suốt ngày đêm,

Không lúc nào rời Ngài.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, hình dáng Ngài đoan nghiêm đủ ba mươi hai tướng. Vua Mãn Độ Ma liền triệu vị thầy xem tướng đến xem tướng cho Đồng Tử.

Vị Bà La Môn ấy tâu: Nếu Ngài sống tại gia thì thọ Pháp Quán Đỉnh, giữ ngôi vị chuyển luân vương, làm chủ cả thiên hạ, đủ ngàn người con uy đức không sợ hãi. 

Hàng phục các quân đội khác mà không cần đến binh đao cung kiếm. Nếu Ngài xuất gia tu hành chắc chắn thành bậc Chánh Đẳng Giác.

Thế Tôn nói kệ:

Tướng Sư Bà La Môn,

Xem tướng Đồng Tử này.

Tâu với Vua cha rằng,

Bậc đủ ba hai tướng.

Như Trăng giữa muôn sao,

Ít có trong thế gian.

Nếu Ngài ở cung điện,

Tất làm Vua Chuyển Luân.

Thống lĩnh cả bốn châu,

Sinh một ngàn Thái Tử.

Nếu xuất gia tu hành,

Liền chứng Vô Thượng Giác.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy sinh ra nơi hông bên phải, thân Ngài màu vàng ròng, tướng mạo đoan nghiêm, như hoa sen mọc trong nước không dính bụi trần. Tất cả mọi loài chiêm ngưỡng Ngài không chán.

Âm thanh Ngài nói ra dịu dàng nhỏ nhẹ thanh nhã lưu loát, như chim Ca Vĩ La ở Tuyết Sơn. Chim này rất thích ăn hoa, hót lên giọng thanh nhã dịu dàng. Chúng sinh nghe tiếng hót đều ưa thích. Âm thanh ngôn ngữ của Đồng Tử cũng vậy.

Thế Tôn nói kệ:

Đồng Tử lúc mới sinh,

Thân thể màu vàng ròng.

Cũng như hoa sen hồng,

Bụi trần không dính được.

Tiếng nói Ngài thanh nhã,

Như tiếng chim Ca Vĩ.

Mọi người khi được nghe,

Ưa thích không biết chán.

Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Bí Sô: Các thầy lắng nghe! Khi Đại Bồ Tát ấy còn là Đồng Tử đã xa lìa gian tà dối trá, tâm ý thuần chính, tự giác giác tha thường hành chánh pháp. Mọi người đều tôn trọng phục vụ như Thiên Đế Thích tôn kính cha mẹ. Do đó, Ngài tên là Tỳ Bà Thi.

Thế Tôn nói kệ:

Tỳ Bà Thi Như Lai,

Khi còn là Đồng Tử.

Thông minh đại trí tuệ,

Xa lìa sự dối trá.

Tự giác và giác tha,

Tu tập theo chánh pháp.

Mọi người thường ái kính,

Như vị Trời Đế Thích.

Kính phụng dưỡng cha mẹ,

Danh tiếng khắp thế gian.

Nên hiệu Tỳ Bà Thi,

Lợi ích cho chúng sanh.

***