Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị đại đà La Ni

PHẬT THUYẾT

KINH THÍ NGẠ QUỶ

CAM LỘ VỊ ĐẠI ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng

Pháp Sư Bạt Đà Mộc 
 

PHẦN BA
 

THÍ NGẠ QUỶ CAM LỘ VỊ

ĐÀ LA NI THẦN CHÚ KINH
 

Nam Mô bộ bổ lợi đát tha yết đá gia Án tát bà tích lợi đa, yết la gia a già xoa tóa ha.

NAMO BHŪ PŪRI TATHĀGATĀYA.

OṂ SARVA PRETA KARĀYA AKṢA SVĀHĀ.

Pháp của Khế ấy: Đứng thẳng, đem hai chân đứng làm hình chữ Thập. Trước tiên ngửa tay trái rũ xuống ở đầu gối làm tướng thí vô úy.

Tiếp theo tay phải: Đem ngón cái nhập vào lòng bàn tay, bốn ngón kia nắm lại nâng lên để dính vòng khen ở tai phải, dùng phần không có đầu ngón, đưa qua lại. Liền tụng niệm Diệu Ngôn ba biến thời quán tưởng tất cả nhóm ngạ quỷ, ba mươi sáu bộ quỷ thần đều tập tụng Chú bên cạnh người, chắp tay chiêm ngưỡng, quán Hành Giả.

Đà La Ni Diệu Ngôn này. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện, Đồng Nam, Đồng Nữ thọ trì đọc tụng thì thân đời này được mười loại nhóm phước.

Nhóm nào là mười?

1. Chẳng bị trúng thuốc độc.

2. Rắn độc chẳng dám cắn.

3. Đao, gậy chẳng thể hại.

4. Vua, quan chẳng dám giận.

5. Mọi người đều yêu kính.

6. Trời, Rồng thường đi theo gộ giúp.

7. Quần áo đều dư đủ.

8. Dung mạo đoan chính.

9. Lìa hẳn sự đáng sợ.

10. Chẳng thọ nhân thân trong ba đường địa ngục, quỷ đói, súc sanh.

Án, bộ bồ lợi già đát lợi đát tha yết đá gia.

OṂ BHŪ PŪRIKĀ TARI TATHĀGATĀYA.

Pháp tướng của Khế ấy: Dựa theo Triệu Hoán Khế Pháp bên trên kèm bàn chân đứng thẳng, đem mười ngón tay chắp lại, cùng dính đầu ngón, khoảng giữa ấy cách nhau khoảng một thốn 1/3 dm, mở cổ tay để ngay trên trái tim. Đây gọi là Đại Bi Tâm Luân Đà La Ni Pháp.

Khi kết Ấn này thời quán tưởng trên Khế có một viên ngóc báu Ma Ni thủy tinh, phóng ánh sáng thủy tinh chiếu chạm các quỷ thì tất cả lửa mạnh thảy đều chẳng cháy nữa, ánh sáng thủy tinh này nhập vào miệng của các quỷ thì cổ họng của các quỷ đều được mở thông, tức lìa các khổ não.

Nam Mô tố lỗ bà duệ đát tha yết đá gia đát điệt tha tô lỗ tô lỗ, ba la tô lỗ, ba la tô lỗ sa bà ha.

NAMO SU RŪPAYA TATHĀGATĀYA.

TADYATHĀ: SURU SURU PRASURU PRASURU SVĀHĀ.

Pháp tướng của Khế ấy: Ngồi Bán Già như pháp ngồi của Chuyển Luân Vương. Trước tiên dùng tay phải như dạng nâng cái cổ, cách cái cổ khoảng một Thốn 1/3 dm, để khuỷu tay trên đầu gối phải.

Tiếp theo ngửa nghiêng tay trái, duỗi năm ngón rũ trên đầu gối trái, làm dạng ban cho sữa. Khi tác Khế này thời tụng niệm Diệu Ngôn bảy biến, tưởng quán năm đầu ngón tay trái tuôn ra sữa màu trắng, màu hơn hẳn bạc trắng, tuôn ra chẳng dứt. Các nhóm quỷ đó đều há miệng nhận lấy sữa, đều được no đủ.

Người tác Khế: Thiện nam tử ấy, thân hiện tại sẽ được mười sáu loại công đức.

Thế nào là mười sáu?

1. Thọ mệnh lâu dài.

2. Nhan sắc xinh đẹp.

3. Khí lực tràn đầy.

4. Tâm thường hoan lạc.

5. Biện tài không có vướng mắc.

6. Luôn không có tưởng bị đói.

7. Trong miệng có hương thơm tinh khiết.

8. Con người đều kính ngưỡng.

9. Thiên Thần đi theo bảo vệ.

10. Quỷ Tỳ Xá Già Piśāca hiện hình cung cấp.

11. Thận không có bệnh hoạn.

12. Uy đức như vị Vua.

13. Người ác, quỷ ác nhìn thấy đều sinh vui vẻ.

14. Được phước của ngàn vị Luân Vương.

15. Trong mộng thấy các Bồ Tát, A La Hán.

16. Nơi sinh ra, Thế Giới chấn động.

***