Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị đại đà La Ni

PHẬT THUYẾT

KINH THÍ NGẠ QUỶ

CAM LỘ VỊ ĐẠI ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng

Pháp Sư Bạt Đà Mộc 
 

PHẦN HAI
 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn tức liền tuyên nói Thí Cam Lộ Thực Đà La Ni Chú là:

Na mô sa bà đát tha già đá nam phộc yết đế tam mạt la, tam mạt la.

NAMO SARVA TATHĀGATAN AVALOKITE SAMBHĀRA SAMBHĀRA.

Bản khác ghi nhận câu Chú này là:

Namaḥ sarva tathāgata avalokite Oṃ sambhāra sambhāra hūṃ.

Khi ấy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Thắng Đại Bi Nhật Đà La Ni Thần Chú xong, thời Trời Đất chấn động theo sáu cách. Nơi ba ngàn đại thiên Thế Giới này thảy đều sáng tỏ, tuôn mưa hoa báu của Cõi Trời cuống quýt như mây rơi xuống với hương báu, chuỗi Anh Lạc, kỹ nhạc của Cõi Trời rối rít rơi xuống như mưa.

Tức thời tất cả khí cụ trị tội khổ không gián đoạn trong sáu nẻo tranh nhau va chạm, diễn xướng âm thanh: Vô thường, khổ, không, giải thoát. Vạc nước nóng, lò than đều bị gãy đổ phá hoại. Tất cả tội nhân tự biết túc mệnh, tiêu trừ lo nghĩ thích nhiên như nhập vào Tam Thiền. Trong hội này có người được Sơ Quả cho đến A La Hán Quả. Vô lượng Người, Trời phát tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Nguyệt Ái Bồ Tát với các đại chúng: Đà La Ni này khó có thể được nghe, huống chi là được nhìn thấy, câu chi Đức Như Lai ở quá khứ, vị lai đều cùng nhau tuyên nói, nay ta, Thích Ca Mâu Ni cũng lại vì ông mở bày tuyên nói.

Này Thiện Nam Tử! Nếu các Trời, người như pháp thọ trì. Hoặc bị các quỷ thần với sự đói khát bức bách, chết đột ngột chẳng đúng thời… ắt chẳng được tên gọi là Thắng Đại Bi Nhật Đà La Ni vậy.

Tại sao thế?

Vì Đà La Ni này ví như Vua báu Ma Ni hay thỏa mãn tất cả ý nguyện, cũng như trăng sáng hay khiến cho hoa Ưu Đàm trợ nhau giọi sáng hé nở.

Thiện Nam Tử! Nếu có Bồ Tát chẳng dính mắc vào niềm vui của mình, cứu nơi khổ ấy, huân tu đại bi, tất cả lợi an, như Pháp thực hành bố thí thì người này đúng là Bồ Tát đại bi. Người này do thực hành Hạnh Quán Âm nên được tất cả Chư Phật trao tay thọ ký, các Tôn Bồ Tát chịu khó yêu giúp, tất cả Hiền Thánh nhìn như đứa con của mình. Các Trời, Rồng, Thần đi theo hộ vệ.

Nguyệt Ái nên biết, người này có công đức ngang bằng với Bồ Tát Di Lặc Maitreya.

Tại sao thế?

Vì kẻ trai lành này nếu hay con người Trượng Phu Puruṣa, ngày ngày tu hành. Một ngày bố thí thức ăn thì ngạ quỷ trong một thiên hạ được thức ăn để ăn. Nhiều ngày bố thí thức ăn thì tất cả ngã quỷ trong sáu đường khắp mười phương đều được no đủ hết. Bồ Tát như vậy đắc được nhóm Phước chẳng thể nghĩ bàn, khó thể do lường, chẳng phải là chỗ hiểu, chẳng phải là chỗ biết, tự nhiên mà được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.

Này Thiện Nam Tử! Đà La Ni này, nếu chỉ tán tụng, viết chép thì người đó nhảy vượt qua 60 ức kiếp sống chết vi tế trong thế gian, huống chi là như pháp tu hành không có lúc gián đoạn.

Thiện Nam Tử! Nay ta nói rõ cho ông biết. Người Trì Chú này ở trước mặt Đức Phật Di Lặc nếu chẳng được quyết định trao cho A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký ở Hiền Kiếp Bhadra kalpa này theo thứ tự thành Phật thì ta ắt rơi vào lỗi lừa dối chúng sinh. Từ khi ta thành đạo đến nay, Kinh Pháp đã nói, không có một điều nào vướng vào lỗi này.

Chính vì thế, Nguyệt Ái nên biết, các người đời sau nghe Chú này xong mà có Tâm tin hiểu sâu xa thì người ấy chuyển thân được địa vị của Chuyển Luân Vương, trăm ngàn vạn kiếp thường nhiếp phước của Phạm Thiên, gặp Phật ra đời làm vô lượng cúng dường, tu hành Phạm Hạnh Brahama caryā lâu xa đến được bến bờ của tất cả thần thông. Nơi có thể thọ sinh là thân bền chắc như Na La Diên Nārāyaṇa, thọ mệnh lâu dài, thân ấy màu vàng ròng, được âm thanh Phạm, tất cả uy đức tự tại của thế gian.

Này Thiện Nam Tử! Ai là người có Trí nhìn thấy lợi như vậy mà chẳng chịu thọ trì thì nên biết người này mất lợi ích lớn.

Khi ấy, Nguyệt Ái Bồ Tát nghe Đức Phật nói xong thì vui vẻ vô lượng, lại bạch Phật rằng: Lành thay Thế Tôn! Nguyện ban cho sự lắng nghe nhàn tĩnh.

Con lại xin hỏi: Đà La Ni Đại Bi Bí Tạng này có phương pháp thế nào?

Làm sao thọ trì?

Nguyện xin tuyên nói.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn quán sát đại chúng rồi nở mặt mỉm cười, khen Nguyệt Ái rằng: Lành thay! Đại Sĩ hay hỏi việc này. Hãy một lòng lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông nói.

Đức Phật bảo Nguyệt Ái: Nếu có Người, Trời có ý ưa thích, thọ nhận thực hành pháp môn đại bi của ta thì người ấy cần phải ở ngày tám hoặc ngày mười năm của kỳ Bạch Nguyệt, dùng nước nóng thơm tắm gội, xoa bôi các thứ hương màu nhiệm, mặc áo trắng sạch, ăn ba loại thức ăn màu trắng Tam Bạch Thực là sữa, lạc, cơm gạo tẻ hoặc Đại Mạch. Khởi tâm thương xót nơi các chúng sinh, nguyện thề an vui.

Ở phương Đông vào lúc mặt trời mọc, hoặc ban đêm khi mặt trăng tròn đầy thời ở nơi thanh tịnh, hoặc đất trống ở đêm trăng… nên làm Hương Thủy Man Trà La nói là Đàn Địa vậy rộng ba khuỷu tay, dùng bùn thơm xoa tô mặt đất, loại bỏ đất mặn xấu. Đàn mở bốn cửa nếu dùng khi mặt trời mọc thì nên làm Đàn hình vuông. Nếu dùng khi trăng đêm thịnh thì nên làm Đàn hình mặt trăng đầy, đem bốn cái bát đựng sữa an ở bốn góc.

Lại lấy bốn cái bình chứa đầy nước thơm cũng để ở bốn góc xong, tùy theo thời dùng cỏ, cây, hoa…năm sắc an ở miệng bình ấy. Lấy năm lò hương xếp bày ở bốn góc với an một cái bình tại trung tâm. Lại dùng một cái đèn thắp bằng bơ để ở tòa ngồi chính giữa trung tòa. Lại lấy bốn cái bát chứa đầy hoa, nước với cơm gạo tẻ.

Ở trung tâm Đàn làm một tòa hoa sen, dùng vải lụa đủ màu phủ lên trên Đàn ấy, an trí hình Phật hoặc tượng Quán Thế Âm. Cửa nàn an trí nhóm Diêm La Yama, cửa Đông an trí nhóm Thiên Chủ.

Lược nói, dùng mọi loại phan, lọng phản ánh lẫn nhau để nghiêm sức.

Hương đốt thì chỉ được dùng A Ca Lỗ Hương Agaru: Đời Đường nói là Trầm Thủy Hương như pháp kết xong. Hành Giả ở cửa hướng Tây, hướng mặt về phương Nam, ở trước tòa ngồi để một lò lửa thiêu đốt than thẳng chắc Thọ Lặc.

Trước tiên lấy bơ, cao sữa lạc mật hòa chung với nhau rồi để trong vật khí. Hành Giả trước tiên thỉnh mười phương Phật với Bồ Tát, Kim Cương, Trời, Rồng, quỷ thần trụ ở đại địa xong, cột buộc tâm chẳng cho rối loạn. Tưởng mọi loại khổ não của chúng sinh trong sáu nẻo như hướng đã nói. Đã thấy điều này xong thì buồn khóc nhiều, muốn phá hủy để cứu giúp.

Lại tưởng thân của mình ngồi trên đài hoa báu bay đến chốn ấy, điều thân xoa nắn, tuôn lệ như mưa, muốn diệt lửa ấy, lại buồn thương nghẹn ngào gấp bội, đau thấu xương tủy nếu tâm chẳng tương ứng được thì nên tưởng tất cả ngạ quỷ như cha mẹ, vợ con yêu quý của mình.

Như vậy tác quán mười bốn lần xong. Liền ở trong định được Đức Như Lai yêu thương nhất như đứa con một. Tưởng xong, ra khỏi quán, day mặt đối phương Đông, triệu thỉnh tất cả ngạ quỷ khắp mười phương, tụng Triệu Thỉnh Chú này đủ mười bốn biến xong.

Lại tưởng các Quỷ tràn đầy khắp cõi Diêm Phù Jambu dvīpa. Tiếp theo vì chúng khai mở cổ họng khiến được giải thoát. Liền Chú vào nước hương, sữa, cơm, hương, hoa… trong Đàn, dùng Thực Chú rồi quay lại trở về chỗ cũ bản xứ.

Lúc đó, Hành Giả lấy một dúm sữa, lạc, tụng Thí Thực Chú chú vào ba biến thì một lần ném vào trong lửa. Như vậy đầy đủ một ngàn lần xong.

Bây giờ, nơi này có vô lượng trăm ngàn na do tha ngạ quỷ ở mười phương, tất cả tụ tập không có chỗ hở, vui vẻ ăn uống, liền hiện thân ấy nói chuyện với Hành Giả, tùy theo ý của Hành Giả, tất cả ban cho chẳng có trái nghịch.

Hành Giả liền vì ngạ quỷ ấy dạy bảo điều lợi vui khiến được giải thoát. Ngay lúc ấy thời Chư Phật hiện tại trong các cõi nước ở mười phương, từ xa khen ngợi Hành Giả, lại từ xa trao cho bồ đề ký.

Tất cả Bồ Tát vui vẻ yêu nhớ. Tất cả Trời, Rồng mỗi mỗi đều đem hương, hoa, chuỗi Anh Lạc, mọi loại kỹ nhạc từ xa ban cho Hành Giả. Hành Giả do thực hành sức Uy Thần cho nên chẳng rời khỏi chỗ ngồi, liền được trăm ngàn na do tha Đà La Ni Môn, trăm ngàn câu chi Tam Muội Môn.

Thiện Nam Tử! Nói tóm lại, thân hiện tại của người này: Lửa chẳng thể thiêu đốt, nước chẳng thể cuốn chìm, chất độc chẳng thể gây hại, đao chẳng thể gây thương tích, chuyển chỗ ngồi thọ nhận thân liền được Thập Trụ thành Như Lai Địa Tathāgatabhūmi.

Đức Phật bảo Nguyệt Ái rằng: Đây gọi là Thí Cam Lộ Vị Đại Đàn Trường Pháp. Nếu muốn nau chóng được nhóm Tam Muội Đà La Ni của Địa Nhất Tử Địa vị đứa con một với A Nậu Bồ Đề Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề thì cần thiết nên vào Đại Mạn Trà La.

Nếu vì việc tệ hại thì chẳng thể thành công. Chỉ như bên trên đã nói, y theo pháp thọ nhận thực hành thì tất cả được thành nghiệm vậy.

Lúc đó, Đức Thế Tôn liền vì Nguyệt Ái Bồ Tát Ma Ha Tát, nói kệ rằng:

Môn Đà La Ni này

Chư Phật trước đã nói

Nay ta cũng diễn nói

Nhiêu ích người, Trời nên

Nếu người ưa thích tin

Nghe trì như Chú này

Ông nghe công đức ấy

Nay ta sẽ lược nói

Nếu ở ngàn ức kiết

Rộng tạo nghiệp chẳng lành

Tụng Trì Chú này nên

Bảy ngày hay khiến sạch

Bồ Tát ở ức kiếp

Gom chứa các phước đức

Tụng Trì Chú này nên

Bảy ngày khiến thù thắng

Nên biết pháp Chư Phật

Phương tiện chẳng thể bàn

Người được, mới hay biết

Phật nói không có hai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Nguyệt Ái Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Nên biết người này nói công đức ấy chẳng thể cùng tận. Ông nên nhớ nghĩ, như pháp thọ trì.

Tại sao thế?

Vì trong Kinh ở mỗi một nơi chốn của ta nói thế gian, xuất thế gian đều noi theo sự phiến diện nói: Ruộng bi rất ư là bậc nhất.

Lại nữa, Nguyệt Ái! Vào một thời, ta vì vị Tỳ Kheo nói: Nếu người dùng tâm kính ngưỡng sâu xa, bố thí thức ăn uống cho Ta. Trong khoảng thời gian chưa trao cho ta mà quay lại đem cho con chó thì ta khen người này được phước vô lượng.

Thế nên Nguyệt Ái! Tuy bố thí cho A La Hán, Bích Chi Phật, thời hiện nhận quả báo ấy có hạn có lượng, chỉ được năm trăm kiếp quá báo của người, Trời. Khéo bố thí cho ngạ quỷ một món ăn bằng một sủy thì phước đức của người ấy tức là Bồ Đề. Bồ Đề Bodhi thì chẳng có thể hạn lượng, thế nên Phước Thọ chẳng thể hạn lượng.

Nay ông hãy nghe cho kỹ! Ta lại vì ông nói công năng với việc đã làm của Đà La Ni này.

Nếu lại có tội nặng, nghiệp ác chồng chất ngăn che, khó thể trừ đứt. Mỗi ngày Chú vào cháo sữa, đem cho ngạ quỷ. Đầy đủ bảy ngày thì tất cả tội chướng đều diệt được hết không có dư sót.

Lại có một pháp. Nếu người bị bệnh rất nặng với các nhóm bệnh quỷ thì nên làm ba chén cháo miến rồi Chú vào bảy biến. Ở trong chỗ hoang vắng, đem cho ngạ quỷ. Như vậy mười bốn ngày thì bệnh đau đã bị, liền được trừ khỏi.

Lại nữa, trong đất nước có chất độc của nghiệp ác lưu hành, người dân bị bệnh tật, súc sinh bị chết yểu thì nên làm lò lửa, lấy hạt Tát Lợi Sát Ba Đời Đường nói là hạt cải trắng hòa với nhóm bơ, mật. Hô gọi các hàng Tất Lợi Đá Preta, sau đó lấy một dúm, một lần Chú thì một lần ném vào trong lửa. Như vậy ngày ngày đều làm một trăm lẻ tám lần, xong bảy ngày thì quỷ ác vui vẻ, thu nhiếp chất độc ác, bệnh tật tai họa đều trừ diệt.

Lại nữa, nếu có người đột ngột gặp chuyện Khẩu Thiệt thì nên làm nước mật, Chú vào bảy biến, rải tán bốn phương thì tất cả việc Khẩu Thiệt tự nhiên diệt hết.

Lại nữa, nếu có oan gia, tâm thù muốn lập mưu gây hại, thì nên ở buổi sáng sớm, vì các hàng ngạ quỷ đặt bày thức ăn uống ngon, xưng tên kẻ oán lúc trước thì các ngạ quỷ liền khiến cho người ấy gặp phải việc suy kém, tai họa.

Lại nữa, có pháp. Nếu gặp kiếp mất mùa đói kém thì nên Chú vào năm loại lúa đậu, sữa, cao sữa một trăm lẻ tám biến rồi ném vào ao nước. Tức người dân trong đất nước liền được no ấm an vui.

Lại nữa, có pháp. Nếu muốn Tất Đế Lợi Preta, Ma Gia Māyā. Lấy Ngưu Tô, sữa, cao sữa… hướng mặt về phương này, Chú vào một ngàn biến bố thí cho ngạ quỷ. Hô gọi hàng Xá Đề Đà, Lam Bà Lambā … vì ta chọn lấy mỗi một thứ kia, tức liền đem đến. Nếu muốn khiến đi thì hô khiến đem đi, tức liền đem đi.

Lại nữa, có pháp. Nếu muốn khiến lấy mọi loại tài bảo. Như trên đặt bày thức ăn, Chú đủ một vạn biến. Hô gọi tên rối nói, tức đem vàng bạc, bảy báu đến cho Hành Giả.

Lại nữa, có một pháp. Lấy Sài hồ một loại cỏ thuốc, gạo tẻ, bơ, mật… lấy một dúm, Chú một biến thì một lần thiêu đốt, đủ một ngàn không trăm lẻ tám biến ắt được tài vật lớn, tất cả sự mong cầu đều được như ý.

Lại nữa, có pháp. Nếu muốn mãn túc Đàn Na Dāna: Bố thí, Hành Giả mỗi ngày cho ngạ quỷ thức ăn uống, đủ một trăm ngày liền được đầy đủ.

Lại có pháp. Nếu muốn cầu thọ mệnh kéo dài. Làm pháp như bên trên, đủ một trăm ngày, liền được sống lâu.

Lại có pháp. Nếu muốn thân hiện tại được xinh đẹp, mạnh mẽ, khiến người nhìn thấy sinh vui vẻ thì nên bố thí cho ngạ quỷ đủ một trăm ngày, ắt được như ý.

Như vậy, lược nói chỉ có tất cả việc mong cầu, mọi loại suy kém tai vạ thì khởi ý đối trị, ắt tất cả đều được. Thế nên nay ta lược nói chút ít vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Nguyệt Ý Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Đà La Ni Kinh này chẳng thể nghĩ bàn. Nói công đức ấy, nếu lại một kiếp, hoặc giảm một kiếp cũng chẳng thể hết. Nếu đời tương lai hay trì Kinh này thì nên biết người đó đã nhiếp lấy hai mươi loại nhóm phước đức lớn.

Thế nào là hai mươi?

1. Hiện tại chẳng bị đót khát, nghèo cùng, ách nạn, bệnh tật, suy kém, tai vạ… quấy nhiễu thân tâm.

2. Người ấy ăn thức gì, nếu chẳng ngon cũng đều thành thượng vị.

3. Người ấy đi vào đường hoang vắng thì trùng độc hòa hợp với cỏ thuốc, cuối cùng chẳng thể gây thương tích được.

4. Quỷ thần, La Sát. Tinh mỵ, võng lượng nhìn thấy người ấy như Đức Phật.

5. Chư Phật, Bồ Tát, Thiên Tiên, Long Thần hộ giúp người ấy như tròng mắt của mình.

6. Hết thảy bệnh dịch, hoặc là nghiệp, hoặc mơ hồ… đều chẳng thể đến gần thân của người ấy.

7. Người ấy có thọ mệnh tăng tiến, nằm yên, hiểu biết điều hư vọng, việc tiếp chạm được cát tường.

8. Người ấy ở nơi hiểm trở, hoang vắng, thiếu cỏ, nước thì tự nhiên hợp ý.

9. Người ấy có tướng mạo vui vẻ, da dẻ sáng bóng, không có hình sắc xấu.

10. Người ấy thường gặp bạn tốt, cho đến Bồ Tát hiện ra làm bạn.

11. Đời vị lai, người ấy thường sinh vào nhà Sát Lợi Vương.

12. Người ấy có đầy đủ sắc đẹp, sức mạnh, sống thọ, được an vui, biện bác khéo léo.

13. Người ấy thường sinh trước mặt Chư Phật, Bồ Tát.

14. Người ấy ở tại chỗ nào thì phục tàng kho tành bị che dấu tự hiện ra.

15. Người ấy luôn được người khác cung kính, tiếp đón.

16. Không ai có thể cướp đoạt được hết thảy tài bảo của người ấy.

17. Ý Muốn, ước nguyện của người ấy đều được xứng tâm toại ý.

18. Người ấy chẳng bị sinh ra trong thời đói kém, kiếp nạn.

19. Người ấy thường sinh trên Trời, thọ nhận niềm vui thù thắng tôn quý.

20. Người ấy thường dùng pháp hỷ thiền duyệt không có đói khát.

Đây là hai mươi loại nhóm phước đức lớn.

Thiện Nam Tử! Đà La Ni này có uy đức tự tại. Nếu là người đói khát thì hướng vào mặt mà tụng thì kẻ ấy liền được no đủ. Nếu Chú vào cây khô thời nó còn được sống lại, huống chi là Chú vào hữu tình mà chẳng nương nhờ được phước ấy sao. Cho nên nay ta ân cần ba lần nói giao phó cho ông, ông nên nhớ giữ, vì chúng sinh nói, đừng để quên mất.

Bấy giờ, Nguyệt Ái Bồ Tát được nghe pháp phương tiện này từ Đức Phật, nên vui mừng hớn hở. Liền đem chuỗi Anh Lạc Tỳ Lăng Già Ma Ni Châu với các hương hoa rải tán lên trên Đức Phật.

Tức ở trước mặt Đức Phật dùng Kệ khen rằng:

Đại Bi Quán Thế Âm

Âm Ca Lăng Tần Già Kalaviṅka

Dùng mọi ngôn từ khéo

Mở bày pháp cam lộ

Vì muốn đều tồi phục

Núi nghiệp rộng lớn nên

Dùng môn phương tiện này

Ân cần giao cho con

Con y theo Phật dạy

Kham nhẫn, rộng lưu bày

Nguyện xin sinh trong pháp

Cỏ lại dùng làm lò.

Đức Phật nói Kinh này xong, thời tất cả Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cương Lực Sĩ, Thích, Phạm, Tứ Trấn bốn vị Thiên Vương, Trời, Rồng, Quỷ Thần nghe Đức Như Lai khen nói Thân Na Tất Lợi Đa Cam Lộ Vị Pháp Đà La Ni Dāna pretaamṛta rasa dharma dhāraṇī này thảy đều vui vẻ, vâng theo lời dạy mà tu hành.

***