Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị đại đà La Ni

PHẬT THUYẾT

KINH THÍ NGẠ QUỶ

CAM LỘ VỊ ĐẠI ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng

Pháp Sư Bạt Đà Mộc 
 

PHẦN MỘT
 

Như vậy, một thời Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngự tại Hải Hội nói pháp, trụ trong Đạo Trường Lô Kế Xá Bà La Lokeśvara trên ngọn Kim Cương Luân Vajracakra ở núi Cô Đà cùng với A tăng kỳ bốn chúng vây quanh, ngồi trên toà Sư Tử có tám góc Kim Cương, vì các Bồ Tát nói Pháp Phương Quảng Vipula, trọn thời buông rũ dục.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thương xót các loại chúng sinh trong nẻo ác, muốn diễn nói Sấn Na Tất Lợi Đá Ma Đà La Bát Già Đà La Ni Đời Đường nói là: Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị Đạo Trường Hội Đà La Ni.

Thắng Đại Bi nói là: Bí Mật Thiện Môn cho nên ở trong trái tim của Ngài ngầm phóng ra ánh sáng màu Nguyệt Tinh Ma Ni tên là Nguyệt Ái Từ Quang, bên trên đến cõi Hữu Đỉnh Akaniṣṭha, bên dưới đến địa ngục A Tỳ Avīci …

Trong đó hết thảy đều được sáng tỏ trong suốt như gương pha lê soi thấy ảnh tượng, cho đến lướt tràn vòng khắp mười phương, rồi bảo đại chúng rằng: Này thiện nam tử! Các ông hãy tạm quán sát mọi loại khổ não của thân phải chịu trong sáu nẻo.

Lúc đó đại chúng nương theo uy thần của Đức Phật nhìn thấy việc đó xong, cùng phát lời nói rằng: Dạ vâng! Đã thấy như thế.

Đức Phật nói: Tám nỗi khổ của thế gian chẳng thể nói đủ, các tai vạ trong sáu nẻo rất là đáng sợ.

Sao lại như thế?

Vì người của thế gian ấy chẳng tin tội phước, chê bai không có nhân quả, điên đảo không biết, keo kiệt, tham lam, ganh ghét, đố kỵ… sau khi mệnh chung bị rơi vào địa ngục Vô gián chịu nhận đầy đủ mọi nỗi khổ chẳng thể nghĩ bàn. Từ địa ngục sinh ra trong nẻo quỷ đói chịu đủ các nghiệp ác, nhậm chịu quả báo sai khác. Do nghiệp ác cho nên nhận lấy thân của ba mươi sáu loài quỷ đói.

Ấy là Tiết Lệ Đa Quỷ Preta Đường dịch là quỷ đói, Xá Gia Quỷ Cchāya Đường dịch là Ảnh Quỷ, Kiện Đà Quỷ Gandha Đường dịch là Thực Hương Quỷ, Bố Sắt Ba Quỷ Puṣpa Đường dịch là Thực Hoa Quỷ, Kệ Bà Gia Quỷ Garbhāya Thực Thai Tạng Quỷ, A Du Già Quỷ Aśucya Thực Bất Tịnh Quỷ, Bà Đá Quỷ Vānta Thực Phong Quỷ.

Ô Đà Ha La Quỷ Ūrjāhāra Thực Tinh Khí Quỷ, Đà La Chất Đa Quỷ Dhara citta Sân Tất Tâm Quỷ, Chất Đa Quỷ Citta Ác Tâm Quỷ, Bà Lô Gia Quỷ Thực Tế Tự Quỷ, Thị Vĩ Đá Quỷ Jīvita Thực Nhân Thọ Mệnh Quỷ, Tỵ Toa Kê Đà Thực Nhục Chi Đẳng Quỷ, Xà Để Quỷ Jati Thực Sơ sản Tử Quỷ, Yết Tra Bố Đan Na Quỷ Kaṭapūtana Kỳ Xú Quỷ.

Thân ấy toả mùi hôi thối như mùi thiêu đốt xương cốt, Cưu Bàn Trà Quỷ Kumbhaṇḍa Thủ Cung Quỷ, Tất Giá Già Quỷ Piśāca Xí Thần là quỷ thần nhận lấy vật thực bất tịnh do người cúng tế ở nhà xí.

Như vậy cho đến nhóm nhẹ nặng, hở rỗng… do nghiệp ác thâm sâu cho nên đói khát bừng lửa, ganh ghét đố kỵ cháy mạnh, thường tham ăn uống, chỉ nghĩ đến nước chẳng biết đến điều khác, mọi loại khổ thiết thực chẳng thể nói hết.

Cảm được thân này như đám lửa lớn, dáng dấp gầy ốm khô cằn, chân tay yếu ớt, bàn chân như cái chậu sành nghiêng đổ, da thịt khô khốc, mạch máu cạn khô giống như quả trái khô héo, bụng trương lớn như cái trống, cổ họng như mũi kim, hơi thở chẳng thông, thường có lửa mạnh thiêu đốt trong ấy, đầu lâu ngang dọc bằng năm núi Di Lâu Meru: Tu Di lửa mạnh cháy hừng hực chưa từng tạm phế bỏ.

Khi cử động thân thì đột nhiên lửa dấy lên làm cho đói khát, lửa lớn bức bách thiêu đốt thân tâm, chạy khắp Đông Tây, mỗi mỗi kêu gào cầu có thức ăn.

Giả sứ thấy thức ăn ngon, muốn hướng đến đấy nhưng do sức tham não, vị ngon thượng diệu ấy biến thành máu mủ hôi thối xấu ác chảy tràn lan, tuy thấy sông lớn, nước suối trong mát, muốn đến lấy uống thì bị các vị Thủy Thần dùng gậy sắt đánh đập. Giả sử không có, nếu lấy được thì nước lạnh trong mát biến thành đám lửa rực.

Lại bị loài kên kên, quạ, chim Ngạc hay chim Thư Cưu, chim ưng biển, các loài chim có mỏ bằng sắt… mổ vào con mắt. Lại bị loài thú mạnh độc ác, cọp đói, sói đói, mãng xà, chó bằng đồng… cào cấu, chộp vồ, đánh tát. Tóm tắt là khổ chẳng thể nói được.

Lông tóc đè ép chỗ trũng trên thân thể, ở đầu một sợi lông có một vạn tám ngàn con trùng nhỏ độc ác sống bám trên mỗi một sợi lông để ăn nuốt.

Vì các ngạ quỷ luôn bị cái đói thúc bách, cho nên tâm giận dữ chuyển mạnh, lần lượt tàn hại lẫn nhau, phá bộ não tuôn ra tủy để cùng nhau ăn uống. Trong năm trăm kiếp còn chẳng nghe được tên gọi của nước uống, huống chi là được nhìn thấy. Khổ não như vậy chẳng thể ví dụ được, chẳng phải là chỗ mà toán số tính đếm được.

Nói tóm lại, đầy đủ trăm ngàn ức kiếp, thân phải chịu nhận sự mỏng kém của nghiệp đen Hắc Nghiệp như thế mới được thoát khỏi. Lìa được cảnh ấy xong, lại làm mọi loại trùng thú, thường ở trong nhà xí, hoặc lại thọ thân hèn mọn ở các chỗ ô uế hôi thối.

Này các thiện nam tử! Các ngạ quỷ đó đều do đời trước: Ngu si, điên đảo, bực bội, tham lam bám dính khắp tâm cứng chắc như sắt, chỉ ưa thích toan tính tìm kiếm thu tóm, bóc lột, cướp đoạt của người khác chẳng biết chán đủ.

Cha mẹ, vợ con đều chẳng cung dưỡng. Sư Trưởng dạy bảo khuyên răn thì coi như phân dơ. Chẳng hề giúp đỡ cho đày tớ, bạn bè, thân thuộc. Ngưởi keo kiệt như vậy chẳng lo nghĩ lẽ vô thường, tiếc giữ tài vật, nói làm cho trăm năm, lại thêm dạy bảo người khác tham cầu tiếc dấu, chẳng viết tướng vô thường, già, bệnh theo đuổi xác thân.

Gặp bệnh ác tự biết chẳng còn lâu, nhưng vẫn thường nghĩ thầm: Khi ta còn sống, siêng năng cực khổ kiếm tiền. Nếu sau khi ta chết thì các người ác ăn mất tài vật của ta như nuốt lửa mạnh, ở nhà cửa của ta như ở trong căn nhà tối tăm.

Khi tác niệm này thời do nghiệp ác cho nên Ngục Tốt La Sát biến làm người gây phiền não, thu lấy Tư Sinh tiền tài, của cải, vật dụng sống trong đời của kẻ ấy đem đến chỗ của tội nhân, dùng lửa thiêu đốt khiến cho tội nhân vui vẻ.

Do nhân duyên này, trong đường nghiệp ác, tướng trung ấm hiện ra, trước tiên Phong Đại thổi động mất tướng ấm áp, các gió lạnh màu vàng nhân tiện phát động.

Vì gió ác thổi động cho nên gân mạch co quắp, trong miệng khô ráo. Mặt mắt, răng chồn biến thành dạng tiều tụy héo vàng nuy hoàng, bụng trương phồng lên, mạch hiện màu xanh vàng, ăn uống chẳng tiêu, thân thể gầy ốm, miệng đắng, nước tiểu vàng, mắt nhìn chẳng rõ ràng chỉ thấy lửa sáng.

Cổ họng tê liệt sưng vù, ợ hơi, khí gấp rút chạy ngược. Đấu trái tim trên chỗ ô uế hôi thối chận ngang cuống họng khiến cho bị mất tiếng, hơi thở ngắn, khắp thân bị ghẻ nhọt. Máu mủ hôi thối tràn lan, chịu khổ sở lớn.

Khi lâm chung thời lại tác niệm này: Được tất cả viên sắt lóng lánh mở cổ họng, được ngồi trong đám lửa lớn, được ở một chỗ tối tăm… khiến cho lìa lửa sáng với trừ bệnh lạnh, há chẳng khoan khoái sao?

Lúc đó, Ngục Tốt hóa làm vị Lương Y, hư huyễn bày ra viên sắt như viên thuốc lớn để trong miệng kẻ ấy khiến miệng ngậm nhanh chóng.

Lại hóa cái xe lớn làm hoa sen vàng ròng, bên trên có Đồng Tử cầm cây phất trần cổ vũ, người bệnh nhìn thấy sinh tâm yêu dính: Quả trứng hóa sức nóng này ắt trừ được sự lạnh buốt của Ta. Liền đi đến phía trước, dứt hơi chết ngay, sinh vào cái hang của viên sắt thiết hoàn quật không có gián đoạn. Trong địa ngục này thì con đường ngạ quỷ là nơi rất khổ não.

Có tất cả ngọn núi cao, rộng, ngang bằng 25 Do Tuần. Hướng Đông của núi ấy có một cái lỗ nhỏ như cái đấu của nước Ma Già Đà Magadha chỉ tuôn ra khói màu đen.

Đã vào trong cái lỗ ấy thì bị trùng đao, trùng kiếm ăn rỉa thân, khói lay động thì con mắt chẳng nhìn thấy đám lửa, che trùm giáp vòng, nếu bỏ chạy thì va đầu vào núi sắt, bể não tuôn tủy như phá cái bình cao sữa lạc bình, viên sắt từ đỉnh đầu đi vào, theo bàn chân đi ra…

Cho đến lược nói, một niệm chết đi thì một niệm sống lại, xong tội rồi thì sinh trong loài quỷ ăn nước mũi nưới dãi với loài quỷ ăn máu mủ. Từ đấy triển chuyển sinh trong hàng Thần ở nhà xí xí thần rình tìm các thứ chẳng sạch bất tịnh để ăn uống.

Tội trong chốn đấy xong rồi thì sinh trong loài súc sanh, phần lớn thọ nhận thân của loài chó. Từ đấy xong rồi, lại sinh làm người nghèo túng, cô đơn không có ai che chở… bị bệnh ung thư, bệnh hủi, mụn nhọt ác, bệnh run lập cập, tiêu chảy… dùng tất cả các thứ suy kém để nghiêm sức. Người do ác kiến này nên bị chết trong sự đói rét.

Tướng mạo nhận chịu quả báo tốt xấu như vậy, khi nghe nói thời lông trên thân đều dựng đứng, huống chi là nhìn thấy… chính vì thế cho nên các ông nên khởi đại bi cứu nạn khổ ấy.

Tại sao như thế?

Vì các nhóm ngạ quỷ đều là cha mẹ, anh em trai, chị em gái của các ông trong đời quá khứ. Do điên đảo, ngu si, chẳng chịu cầu niềm vui xuất thế, lưu luyến dính mắc ba cõi, gây tạo đủ mọi tội… nên sức nghiệp chiêu cảm, sinh trong loài ngạ quỷ, khổ não trợ nhau nung nấu không có dịp xa lìa, vĩnh viễn mất thân người.

Đã bị mất thân người, lại xa lìa bạn tốt cho nên lưới nghi ngờ che ngăn nhiều lớp, vĩnh viễn chẳng được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chính vì thế, nên biết rất là đáng thương, cần phải nhổ bứt ách đau khổ khiến cho họ được giải thoát.

Khi ấy, trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Nguyệt Ái đã từng huân tập biển hạnh đại bi, nhìn thấy việc đó xong thì thân thể rúng động, gân mạch rút lại, cảm thấy buồn thương áo não, từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu mặt làm lễ, lệ buồn tràn đầy mắt, bạch Phật rằng: Than ôi!

Nguyện xin Đức Bà Già Ba Bhagavān: Thế Tôn dạy bảo chúng con pháp cứu giúp khiến choi nhiều nơi được an ổn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Nguyệt Ái Bồ Tát: Lành thay! Đại Sĩ đúng là đại bi vì người tu đại bi thương xót tất cả, cho nên mới hỏi Ta việc này. Ông hãy khéo nghe.

Này thiện nam tử! Ta có Đại Bi thù thắng là Đà La Ni Môn, tên là Sấn Na Tất Lợi Đa Đại Đạo Trường Hội Cam Lộ Vị Pháp chẳng thể nghĩ bàn, đủ đại từ bi, có uy thế lớn, hay đập tan núi nghiệp rộng lớn trong địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.

Cũng hay khiến cho Bồ Tát mau được Địa Nhất Tử con một của Như Lai. Lại được thành tựu một trăm mười bảy loại tâm đại từ bi, hay khiến cho người trì giữ, ở thân hiện đời chứng được Đại Bi Đỉnh Luân Vương Đà La Ni, Đại Bi Bất Hoại Tạng Tam Muội Môn.

Thiện nam tử! Đại Thần Chú này hay diệt lửa đói khát dữ dội của ngạ quỷ, ban cho vị ngọt Cam Lộ trong mát, quyết định mau được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Ví như mặt trăng trong đêm hay trừ sự nóng bức uất chưng. Đà La Ni Dhāraṇī này cũng lại như vậy. Ông nên cột buộc niệm, một lòng lắng nghe cho kỹ, đừng khiến cho quên mất. Nay ta sẽ nói.

Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Đồng Nam, Đồng Nữ với các Người, Trời… có ý muốn thọ trì pháp phương tiện này thì cần phải triệu thỉnh các ngạ quỷ, chúng thần trong tất cả sáu đường, tận mười phương giới.

Nên tác niệm này:

Nam Mô Phật Đà Gia.

Nam Mô Đạt Ma Gia.

Nam Mô Tăng Già Gia.

Nam Mô Bản Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.

Nam Mô An Trú Đại Địa Bồ Tát Chúng.

Nam Mô tất cả Long Thiên, Thiện Thần.

Nguyện dùng uy thần xót thương gia trì trợ giúp.

Nay tôi triệu thỉnh: Ngạ quỷ, loài hữu tình trong tất cả sáu đường, tận cõi hư không trong cõi nước khắp mười phương. Do sức uy thần của Tam Bảo cho nên đều đến chỗ của tôi.

Nói lời đó xong, hướng mặt về phương Đông, liền tụng Triệu Thỉnh Thần Chú bảy biến.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền vì Nguyệt Ái tuyên nói Triệu Thỉnh Đà La Ni Chú.

Liền nói Chú là:

Na mô bồ bố lý đát tha già đá gia.

NAMO BHŪ PŪRI TATHĀGATĀYA.

Bản khác ghi nhận câu Chú này là: Namo Bhūpurikaritari tathāgatāya.

Đức Phật bảo Nguyệt Ái: Triệu thỉnh xong rồi. Lúc đó ngạ quỷ, quỷ thần trong tất cả sáu đường, ở khắp mười phương đều đến tập hội, chiêm ngưỡng Hành Giả như thấy cha mẹ.

Bấy giờ, Hành Giả cần phải khởi tâm đại bi rồi nói rằng: Các vị hãy nghe cho khéo! Nay tôi dùng Đà La Ni này mở cổ họng của các vị, ban cho các vị: Sự trong mát, mềm mại, khoái lạc. Khiến cho các vị tự mình ăn uống được vị ngon của Cam Lộ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Khai Yết Hầu Đà La Ni Chú là:

Án bồ bố lý ca đát lý đát đá già đá.

OṂ BHŪ PŪRIKA TARI TATHĀGATA.

Bản khác ghi nhận câu Chú này là: Oṃ Bhūpurikaritari tathāgatāya.

Tụng Đà La Ni Thần Chú này đủ bảy biến xong thì các nhóm quỷ đó, do sức của Chú, cho nên cổ họng được thông, tức lửa mạnh liền diệt mất, lại không có đau đớn buồn bực, thân tâm được thư thái.

Khi ấy, Hành Giả trước tiên nên bố thí nước. Người muốn bố thí nước thì vào mỗi buổi sáng sớm, hoặc lúc giữa ngày giờ Ngọ lấy một bụm nước sạch, hướng mặt về phương Đông, Chú vào bảy biến rồi hướng về phương Đông tán rải ở không trung. Nước ấy do sức của Đà La Ni này, một giọt rơi xuống đất sẽ biến thành mười Hộc nước uống Cam Lộ của Cõi Trời. Các hàng quỷ thần được sung túc, no đủ, vui vẻ vô lượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Nguyệt Ái cho nên liền nói Chú Thủy Đà La Ni Chú là:

Na mô tô lô bà duệ đát già tha đá gia đát thiết tha tô lô tô lô. Ba la tô lô, ba la tô lô, tóa ha.

NAMO SU RŪPAYA TATHĀGATĀYA.

TADYATHĀ: SURU SURU, PRASURU PRASURU SVĀHĀ.

Bản khác ghi nhận câu Chú này là:

Namaḥ Su rūpaya tathāgatāya.

Tadyathā: Oṃ suru suru prasuru prasuru svāhā.

Đức Phật bảo Nguyệt Ái Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Đây gọi là Thí Cam Lộ Tương Đà La Ni Thần Chú. Lại nữa, nếu các Người, Trời muốn bố thí tức ăn ấy thì mỗi ngày cần thiết ở trước giở Trai giờ Ngọ dùng cái bát hay vật khí tốt đẹp tối thắng, hoặc vật khí bằng vàng bạc, hoặc vật khí bằng đồng, vật khí bằng sắt, Du Thạch Chì.

Hoặc nhóm vật khí bằng Lưu Ly, Pha Lê, vỏ sò, ngọc. Nếu không có các thứ bên trên, chỉ được vật khí bằng gỗ, đá, gạch nung…thật trong sạch, hoặc quả bầu cũng được dùng… chứa đầy sữa, lạc cao sữa. Nếu không có sữa, lạc thì dùng nước sạch cũng được.

Lấy hết thảy thức ăn uống, hoặc cơm sữa, hoặc cơm gạo tẻ cánh mễ, đại mạch. Hoặc nhóm bánh, men rượu, cháo… để ở trong vật khí, đừng để rau, cà. Ở dưới một cái cây có bóng mát, trước tiên tụng Triệu Thỉnh Chú, tiếp theo tụng Khai Yết Chú, như hướng đã nói, Chú vào thức ăn trong vật khí bảy biến xong thì dốc đổ xuống dưới cái cây.

Lúc đó tất cả ngạ quỷ ở mười phương, do sức uy đức của Đà La Ni cho nên đều được thức ăn để ăn, cũng chẳng bị biến hóa thành máu mủ, cũng không bị ngăn chận cấm đoán, tự ý ăn nuốt sung túc no đủ, diệt lửa nóng của cái đói, thân thể an vui không có các sự đau đớn lo âu.

Lại có sự trong mát, mềm mại làm cơn gió thổi đến tiếp chạm thân ấy trừ diệt sự keo kiệt nhơ nhuốc khan cấu, thân không còn nóng khổ, an nhiên khoái lạc.

Các loài trùng ác bám ở các sợi lông dài trên thân đều rơi xuống, cũng không còn tất cả loài cầm thú độc ác tàn hủy lẫn nhau, tâm ý mạnh mẽ vui thích. Do nhân duyên này mà được hết tội, sinh trong Cõi Trời, Người thọ nhận sự khoái lạc vi diệu tôn thắng, tự tại thù thắng của Cõi Trời. Nên biết người đấy chỉ có Phật với Phật mới hay khen ngợi.

***