Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Thiền đạt Ma đa La

PHẬT THUYẾT

KINH THIỀN ĐẠT MA ĐA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
 

PHẦN MỘT

CON ĐƯỜNG PHƯƠNG TIỆN

TU HÀNH PHÁP NIỆM

AN BAN PHẦN THOÁI CHUYỂN
 

Trước lễ Phật Mâu Ni

Diệt phiền não thiêu đốt

Người lưu chuyển thoái thất

Giúp họ được thăng tiến

Tu hành pháp vi diệu

Hay lìa lỗi thoái thất

Diệt luôn mọi điều ác

Thành tựu các công đức.

Đức Thế Tôn biết rõ tướng của các pháp, đạt được trí tuệ như thật, diệt tan lửa dữ phiền não, đã thoát khỏi nhà lửa thiêu đốt, dùng thuyền bát nhã Ba la mật vượt biển khổ vô lượng, vì bản nguyện đại bi nên không bao giờ Ngài rời bỏ chúng sinh, luôn luôn vì những người tu hành mà nói pháp chưa từng có, độ những người chưa độ, làm cho họ được an ổn, có hai cửa cam lồ.

Mỗi cửa có hai đường: Một là đường phương tiện, hai là con đường thù thắng, thanh tịnh, đầy đủ sự vi diệu sâu xa, có khả năng giúp tất cả người tu hành vượt khỏi ba pháp thoái thất, xa lìa mọi trói buộc, thăng tiến càng tăng khiến được thành tựu, quyết định hết khổ sinh tử, dứt trừ mọi ngu si đen tối của chúng sinh từ lâu đời, đưa đến nẻo giải thoát một cách rốt ráo.

Sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, các Tôn Giả như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Mạt Điền Địa, Xá Na Bà Tư, Ưu Ba Quật, Bà Tu Mật, Tăng Già La Xoa, Đạt Ma Đa La, cho đến Tôn Giả Bất nhược mật đa la, các vị trì pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ này thứ tự truyền cho nhau. Như nay theo những gì tôi đã lãnh hội mà nói ra nghĩa này.

Như những gì tôi nghe

Nói cảnh giới tu hành

Phương tiện vượt cứu cánh

Nhờ tu tập phát sinh

Hành giả đối pháp thiện

Trước nên biết bốn thứ

Lùi, giảm, trụ, thăng tiến

Quyết định các công đức

Khi tu hành thoái lui

Liền trụ pháp không sinh

Cũng không thể thăng tiến

Điều đó nay lược nói

Trước khởi ý bình đẳng

Tập hành quán tâm từ

Liền chấm dứt sân hận

Làm cho không khởi lại

Chận đứng các phiền não

Luôn giữ giới thanh tịnh.

Khi giới đã thanh tịnh

Chánh định từ đó khởi

Đã khởi chánh định rồi

Quán sát nên, không nên

Khéo biết nên, không nên

Hướng về điều nên làm

Đã hướng điều nên làm

Chuyên niệm buộc tâm vào

Từ đó được an lạc

Chánh quán nương hơi thở

Khi quán nương hơi thở

Tâm ấy còn tán loạn

Buộc tâm vào hơi thở

Như người khéo điều ngựa.

An Ban có hai thứ: Một là thấy, hai là xúc, kẻ độn căn không thể thấy.

Tâm đã trụ hơi thở

Tư duy nhớ nghĩ đúng

Lạnh, nóng cùng nặng nhẹ

Mềm mại, trơn, thô nhám

Hành giả biết rõ ràng

Tùy thuận khéo điều hòa

Xúc chạm mà không biết

Tức là tu hành lùi.

Đếm một cho là hai

Đếm hai cho là một

Cho đến chín còn lộn

Thế nên nói tu lùi.

Nếu đếm bị thoái lui

Phải đếm lại từ đầu

Cho đến mười đầy đủ

Xa lìa các nhầm lẫn.

Chưa tu hoặc tu rồi

Hay có cách tu khác

Phát sinh các lỗi này

Như vậy là tu lùi.

Hành giả khi đếm số

Tâm cứ sinh rối loạn

Rối loạn càng phát triển

Như vậy là tu lùi.

Hơi thở không thông suốt

Xông lên trên mũi, mắt

Làm đảnh đầu đau nhức

Bên trong phong đại khởi,

Thở loạn, mất giềng mối

Mà không biết điều phục

Thân thể hết sức nóng

Tâm kia sinh hỗn loạn,

Bốn thứ đã rối bời

Phong đại dấy lên tranh

Hành giả khiến nó dứt

Mà không đủ khả năng,

Không biết cách đối trị

Đây ắt mau thoái giảm

Hành giả nương thở vào

Mà lại nương thở ra,

Hành giả duyên thở ra

Mà lại duyên thở vào

Cả hai tâm đều tịnh

Đây là quả tu hành.

Vắng lặng định ý sinh

Mà lại trụ số đếm

Có các lỗi lầm này

Do tu hành thoái lui.

Thở gấp mà an ban

Thì khiến niệm tán loạn

Do niệm tán loạn này

Tâm tu hành phát cuồng.

Vì tâm kia phát cuồng

Không biết nên, không nên

Cả hai không phân biệt

Thế nên nói tu lùi.

Hành giả đếm đã thành

Thở ra biết thở ra

Ra rồi biết chỗ trụ

Nơi ấy khéo quán sát.

Quán rồi thở trở lại

Lại rồi được thanh tịnh

Không rõ biết sáu thứ

Nên tu hành thoái lui.

Dài, ngắn phân biệt rõ

Toàn thân đều tỉnh thức

Thân hành tạm ngơi nghỉ

Tất cả nên biết rõ

Không hiểu rõ điều đó

Khiến tu hành thoái lùi.

Bốn việc thù thắng của

Thân niệm xứ xong

Biết vui cũng biết thích

Ý hành siêng phương tiện

Lại nên chế tâm mình

Khiến không cho loạn động.

Bốn việc thù thắng của

Thọ niệm xứ xong

Phân biệt biết tâm mình

Tu hành quán sát đúng

Lại sinh tâm vui vẻ

Trở lại nhiếp vào định

Không phải tâm không định

Định rồi tâm giải thoát.

Bốn việc thù thắng của

Tâm niệm xứ xong

Người khéo tu giải thoát

Không để tâm chìm đắm

Nếu rơi vào chìm đắm

Thì không thể giải thoát

Quán sát đoạn vô thường

Lìa dục và diệt tận

Hít vào, thở ra diệt

Gọi là tu hành thắng.

Đây là bốn pháp tương tợ niệm xứ

Như vậy mười sáu hành

Tâm tự tại hồi chuyển

Những gì xúc biết được

Thấy được cũng như vậy.

Nếu thấy cùng với xúc

Không khéo biết phân tích

Lỗi này cần phải rõ

Vô trí nên thoái lui.

Tu hành tăng tiến lên

Không nên duyên nơi thấp

Nơi thấp cũng như vậy

Không nên tiến lên trên.

Nếu thấy hai đều tiến

Tâm trụ quán bình đẳng

Thì nó tự nhiên thành

Như vậy đạt cứu cánh.

***