Kinh Nguyên thủy
Phật Thuyết Kinh Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế âm Bồ Tát đà La Ni Thần Chú
PHẬT THUYẾT
KINH THIÊN NHÃN THIÊN TÝ
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
ĐÀ LA NI THẦN CHÚ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trí Thông, Đời Đường
PHẦN HAI
Ấn thứ bốn: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thiên Nhãn Ấn.
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên đem các ngón giữa, ngón vô danh, ngón út để dính lưng móng. Dựng thẳng hai ngón trỏ dính đầu ngón, hai ngón cái đặt nghiêng trên vạch thứ hai của ngón trỏ, mở cổ tay khoảng năm thốn, đặt ở my gian Tam Tinh. Đây gọi là Thiên Nhãn Ấn.
Tác Ấn Chú pháp môn này liền được quán thấy quốc thổ tĩnh diệu của Chư Phật trong trăm ngàn vạn ức Thế Giới. Mỗi một Cõi Phật đều được trăm vạn bốn ngàn Bồ Tát cùng làm bạn lữ với Hành giả.
Nếu chưa trải qua ba Mạn Trà La ắt chẳng được nhìn thấy Ấn Chú của Ấn pháp môn này kẻo khiến người bị tội Thầy Thông tác pháp ấn này, thân nghiệm, Bồ Tát trao pháp cho Thầy Trí Thông. Phàm có ước nguyện thảy đều mãn túc.
Chú là: Án Tát bà chước sô già la gia đà la ni Nhân địa lợi gia toa ha.
Ấn thứ năm: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thiên Tý Tổng Nhiếp Ấn.
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Ngửa lòng bàn tay phải, năm ngón đều phụ nhau. Lại ngửa lòng bàn tay trái đè trên lòng bàn tay phải rồi để chạm dính trái tim.
Đây gọi là: Tổng Nhiếp Thiên Tý Ấn.
Ấn này hay giáng phục Ma Oán của ba ngàn Đại Thiên Thế Giới.
Chú là: Đát điệt tha Bà lô chỉ đế nhiếp phạt la gia Tát bà đột sắt tra ô ha, di gia toa ha.
Ấn thứ sáu: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thông Đạt Tam Muội Thành Ấn.
Đứng thẳng, hai chân chạm nhau. Trước tiên dựng năm ngón tay trái cùng nắm nhau, cong khuỷu tay hướng về phía trước. Tiếp theo, tay phải cũng vậy. Co khuỷu tay hướng vào bên trong. Đây gọi là Thông Đạt Tam Muội Ấn.
Ấn này hay khiến cho thông đạt tất cả Tam Muội Trí Ấn, phương tiện trang nghiêm, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều nhân theo pháp này mà được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Dùng Đại Thân Ấn lúc trước.
Ấn thứ bảy: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Hô Triệu Thiên Long Bát Bộ Quỷ Thần Tập Hội Ấn.
Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên tay trái lấy ngón vô danh vịn trên móng ngón cái. Tiếp theo, tay phải cũng như vậy, dựng thẳng hai ngón út và ngón giữa dính đầu nhau, hợp cổ tay cùng phụ dính nhau, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là: Án Tát bà đề bà, na già A na lợi toa ha.
Ấn thứ tám: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Hô Triệu Đại Phạm Thiên Vương cập và Kiều Thi Ca lai vấn đến hỏi Pháp Ấn.
Dựa theo Ấn trước, mở cổ tay để cạnh tay dính nhau, ngửa lòng bàn tay, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là: Án Ma Ha phạm ma gia yên hề di hề toa ha.
Pháp Ấn Chú này hay nhiếp vô lượng vô số Đà La Ni Ấn pháp môn đều đến tập hội. Nếu vào lúc Nhật Nguyệt Thực, chú vào bơ hai mươi mốt biến, dùng Ấn ấn lên bơ rồi ăn vào sẽ khiến cho người ấy thông minh, một ngày tụng vạn bài Kệ.
Ấn pháp môn này do Nhật Tạng Như Lai truyền cho Quán Thế Âm Bồ Tát.
Ấn thứ chín: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ý Minh Châu Ấn.
Đứng thẳng, chắp tay để ngang trái tim, co hai ngón cái song song vào trong lòng bàn tay, duỗi thẳng bốn ngón còn lại, chắp tay để ngang trái tim. Tụng Đại Thân Chú lúc trước hai mươi mốt biến ắt quyết định được vào cung điện của Chư Thiên, dạo chơi các quốc thổ của Phật ở mười phương, trăm ngàn vạn báu tùy theo ý đã tu đều được cúng dường Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, tất cả Thánh Chúng.
Nếu có người hay tác pháp môn này, vào lúc sáng sớm thức dậy, tắm gội sạch sẽ, tác Ấn Pháp này sẽ nhìn thấy hằng hà sa Phật ở mười phương, diệt trừ nghiệp ác tội nặng trong sinh tử thuộc vô lượng kiếp sau. Vì thế cho nên khen ngợi công đức như vậy.
Ấn thứ mười: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Khất Nguyện Tùy Tâm Ấn.
Dựa theo Ấn trước, co hai ngón trỏ đè trên móng hai ngón cái sao cho lưng móng của ngón trỏ dính nhau. Dùng Thân Chú lúc trước.
Nếu có người tùy theo ước nguyện mong cầu đều được mãn túc, quyết định chẳng thoái Đạo Bồ Đề.
Ấn thứ mười một: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Nhập Diệt Tận Định Tam Muội Ấn.
Dựa theo Ấn trước, duỗi thẳng và bung ngón trỏ, ngón cái rồi mở lòng bàn tay.
Ấn này, lúc ta Quán Thế Âm Bồ Tát ở tại Nhân Địa có hằng hà sa Chư Phật trao Pháp này cho ta khiến cho ta được chứng đạo Bồ Đề. Tụng Đại Thân Chú.
Ấn thứ mười hai: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thỉnh Phật Tam Muội Ấn.
Dựa theo Ấn trước, chắp tay để ngang trái tim, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là: Án Tát bà bột đà tam ma gia yên hề di hề Bát la ma thâu đà tát đỏa toa ha.
Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Trí đặt, dựng Thập Trửu mười khuỷu tay Mạn Noa La Đàn Pháp Tiếp, nói về Đàn Pháp.
Phàm lúc tác tất cả Mạn Trà La pháp môn, cẩn thận khảo xét bản Phạn là: Quốc thổ này không có đất làm Mạn Trà La. Như nước Thiên Trúc kia đều lấy đất phước Đức Thắng Thượng dùng làm Đàn Trường. Riêng nước Bà La Môn có phương pháp chọn chọn lựa đất riêng, chẳng có thể rộng nói.
Có điều luận về đất Hán Trung Quốc này thì bậc nhất là nơi nhàn tĩnh ở núi. Ngay trên đỉnh núi, nơi có hình thế, đào đất loại bỏ gạch đá, vật sành sứ, đất ác, vật ác … xong bắt đầu nện cho bằng phẳng.
Dùng Cù Ma Di hòa với hương để xoa tô đất rộng khoảng một trượng sáu thước, quá lắm là hai mươi ngón tay cho đến mười sáu ngón tay, một khuỷu tay làm thắng thượng. Thứ nhất lấy Hương Bạch Chiên Đàn mài trên đá rồi dùng bụi nhỏ xoa tô trên Mạn Trà La, dùng pháp ngũ sắc vạch giới hạn.
Đàn ấy mở bốn cửa:
Cửa phương Đông đặt Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương Dhṛta rāṣṛra Deva rāja: Trì Quốc Thiên Vương.
Cửa phương Nam đặt Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương Virūḍhaka Deva rāja: Tăng Trưởng Thiên Vương.
Cửa phương Tây Đặt Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương Virūpākṣa Deva rāja: Quảng Mục Thiên Vương.
Cửa phương Bắc đặt Tỳ Sa Môn Thiên Vương Vaiśravaṇa Deva rāja: Đa Văn Thiên Vương.
Tiếp theo đặt để Thiên Vương Deva rāja ở bên phải, bên trái kèm với quyến thuộc đều ở Bản vị.
Chánh giữa Mạn Trà La ấy đặt tượng Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Sahasra Bhūja Avalokiteśvara Bodhisatva. Trước tượng để cái bàn Án, trên bàn đặt Chú Pháp. Đốt mọi loại hương, đặt bày mọi thức ăn uống, rải mọi loại hoa dùng để chúng dường, chỉ trừ vật tạp, vật hôi tanh Huân tân, rượu thịt là không được cúng.
Từ ngày khác riêng làm hương mới, vật mới, hoa, cây, quả trái. Ở trước tượng để Tam bạch thực là sữa, tô lạc, mật. Đốt Đàn Hương, Trầm Hương, Tô Hợp hương, Long Não hương. Mỗi ngày ba Thời tắm gội, thọ ba Luật Nghi. Chí tâm tụng Chú cúng dường Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Sahasra Netre Avalokiteśvara.
Bodhisatva. Sáng sớm, giờ Ngọ, buổi chiều cúng dường ngày ngày chẳng thiếu.
Như vậy cho đến hai mươi mốt ngày tận ý cúng dường, xong đi đến gặp Chú Sư làm Đàn đắp đất tác Pháp: Hô Triệu, tất cả đều có hình tượng trên đồ họa.
Nay xem bản Phạn thì không có việc này. Nên biết Chú Sư ấy hướng mặt về phương Đông tụng Chú. Kết Ấn từ Ấn thứ nhất, Ấn thứ hai cho đến Ấn thứ mười hai Thỉnh Phật Tam Muội Ấn đâu cần lao nhọc Thiết Ấn Khắc Ấn.
Tác Ấn lúc trước một lần đều tụng Chú bảy biến cho đến Ấn thứ mười hai thì xong. Nên tự phát chẳng thoái lui, bền chắc. Có điều tác Pháp Hô Triệu thì tất cả đều đến, khiến phát Tâm Bồ Đề quyết định.
Ngồi ngay thẳng tưởng tất cả Chú Thần ở ngay trước mắt, một lần không có chướng nạn chẳng được hoàn tất?
Tụng Đại Thân Chú lúc trước mãn một ngàn không trăm tám mươi biến.
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ hóa hiện ra thân tướng diện mạo của A Nan Ānanda đến hỏi hành giả: Tu theo pháp nào?
Cầu nguyện điều gì?
Câu này do. Thầy Trí Thông gần gũi tự cúng dường nương theo ghi câu hỏi này hành giả thưa rằng: Vì cầu Pháp Đà La Ni của bồ đề vô thượng.
Nếu lúc mong được thọ ký thì chỉ nguyện phát tâm siêng năng không cầu danh lợi, ước nguyện nên cứu tất cả chúng sinh quán giống như con một. Lại nguyện cho tất cả quỷ thần thảy đều thuận phục. Được như nguyện rồi chỉ tự biết thôi chẳng được hướng về người mà truyền nói.
Thầy Thông phiên dịch Pháp này trao cho Huyền Mộ một bản. Huyền Mộ thọ học.
Nếu muốn được cầu tất cả nguyện nên làm Pháp Thủy Mạn Trà La Thủy Đàn: Đàn hình tròn rộng bốn khuỷu tay, đốt Trầm Thủy Hương, tụng Thân Chú lúc trước một trăm lẻ tám biến, tác Khất Nguyện Ấn thứ mười lúc trước, liền được tất cả như nguyện, mãn túc sự cầu xin. Bản Phạn không có phần này, vì từ bên ngoài nên không như cúng dường này. Tất cả Đà La Ni pháp môn thảy đều thành tựu.
Lại có Pháp: Nếu muốn được tất cả sự vui vẻ, kết Ma Ni Tùy Như Ý Minh Châu Ấn thứ chín lúc trước, tụng Thân chú, chú vào Ô Ma mè đen hai mươi mốt biến rồi thiêu đốt trong lửa, liền được như ý.
Nếu muốn khiến cho các Hát la xà Rāja: Vua chúa vui vẻ nên lấy cành cây trong vườn của Hát la xà chú hai mươi mốt biến rồi ném đặt trong vườn, liền đựơc vui vẻ.
Nếu muốn giáng phục người ác, oan gia. Nên chú vào cây Khổ Luyện hai mươi mốt biến rồi thiêu đốt trong lửa, liền được quy phục.
Lại có pháp. Nếu có Thần quỷ, kẻ khó điều phục. Lấy An Tất Hương với hạt cải trắng, chú hai mươi mốt biến rồi ném vào trong lửa thiêu đốt thì tất cả quỷ thần, loài gây bệnh tự nhiên thần phục.
Nếu có bệnh dịch lưu hành, nên làm Thủy Mạn Trà La rộng bốn khuỷu tay. Lấy Ngưu Tô tốt, chú một trăm lẻ tám biến rồi thiêu đốt trong lửa thì tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt. Lại lấy chút ít bơ Tô cho người bị bệnh dịch ăn thì lập tức khỏi bệnh.
Xưa kia nước Kế tân có bệnh dịch lưu hành, người bị bệnh chẳng qua một ngày, hai ngày đều chết. Có vị Bà La Môn Chân Đế đem pháp này hành, tức thì bệnh dịch liền được tiêu diệt, hành bệnh quỷ vương ra khỏi quốc cảnh, nên biết rất hiệu nghiệm vậy.
Lại có Pháp. Nếu nước khác xâm nhiễu, giặc cướp nghịch loạn khởi dậy. Tác Ấn thứ nhất lúc trước Tổng Nhiếp Thân Ấn, chú một trăm lẻ tám biến thì tất cả giặp cướp tự nhiên diệt hết.
Nếu tất cả chúng sinh bị nghiệp báo, mệnh căn đã hết. Tác Diệt Tận Định Ấn lúc trước, ngày ngày cúng dường, đốt Trầm Thủy Hương, tụng chú mãn một ngàn không trăm tám mươi biến, liền chuyển được nghiệp chướng ấy.
Xưa kia nước Ba La Nại có vị trưởng giả chỉ có một đứa con mà tuổi thọ chỉ được mười sáu năm. Đến năm thứ mười năm, có một vị Bà La Môn đi đến cửa xin ăn nhìn thấy Trưởng Lão ấy buồn rầu chẳng vui, vợ chồng tiều tụy mặt không được sáng sủa.
Vị Bà La Môn hỏi rằng: trưởng giả! Vì sao ông chẳng vui?
Vị trưởng giả nói rõ duyên cớ, Bà La Môn đáp rằng: trưởng giả chẳng nên buồn rầu, cứ để cho Bần Đạo lo liệu ắt đứa con sẽ được tuổi thọ sống lâu.
Lúc đó, vị Bà La Môn tác pháp môn này một ngày một đêm thì được Vua Diêm La Yama rāja báo rằng mệnh căn của con vị trưởng giả chỉ có mười sáu năm. Giờ đã là năm thứ mười năm, chỉ còn 1 năm nữa. Nay gặp nhân duyên lành sẽ được thọ đến năm 80, nên mới đến báo cho biết.
Khi ấy vợ chồng Trưởng Lão hớn hở vui vẻ, đem tiền của trong nhà, cấp thí cho Phật Pháp, Chúng Tăng. Nên biết pháp này có đầy đủ đại thần nghiệm chẳng thể luận bàn.
Người đã từng vào trong Đại Đô Hội Tam Mạn Trà La Kim Cương Đại Đạo Trường rồi thì chẳng cần làm Mạn Trà La. Chỉ cần kết Ấn, tụng Chú ắt không có gì chẳng được quả và mau chóng thành Phật.
Nếu có người nữ lúc sinh đẻ chịu khổ não lớn, chú vào bơ hai mươi mốt biến rồi cho người ấy ăn ắt được an vui. Sinh ra trai gái có đủ đại tướng hảo, mọi thiện trang nghiêm. Do đời trước gieo trồng gốc đức khiến cho người kính yêu, thường ở trong đời người thọ nhận khoái lạc thù thắng.
Nếu có chúng sinh bị bệnh về mắt. Chú Sư dùng Bồ Tát Thiên Nhãn Ấn, chú hai mươi mốt biến, đem Ấn ấn lên mắt thì con mắt liền khỏi bệnh. Dùng đại nhân duyên này làm cho người ấy đắc được thiên nhãn, ánh sáng chiếu suốt nhìn thấy cõi Trên, nơi mọi loại thọ hưởng khoái lạc thù thắng của Trời, Người.
Tiếp, nói về Pháp Vẽ Tượng: Xem xét bản Phạn cẩn thận. Tạo Tượng đều dùng vải trắng tốt, rộng mười khuỷu tay, khoảng bằng 1 trượng 6. Dài hai mươi khuỷu tay, khoảng bằng ba trượng hai.
Thân Bồ Tát làm màu vàng ánh, mặt có ba con mắt, một ngàn cánh tay trong mỗi một bàn tay đều có một con mắt. Trong màu vẽ chẳng được dùng keo nấu bằng da thú. Dùng hương, sữa hòa với màu vẽ. Đầu Bồ Tát đội Thiên Quan bằng bảy báu, thân đeo Anh Lạc.
Lại có một bản ghi rằng: Nếu nơi này không có vải trắng tốt rộng như vậy, có thể lấy một mảnh lụa trắng vẽ thân Bồ Tát dài năm tấc, có hai cánh tay.
Y theo Ấn thứ năm Thiên Tý Ấn Pháp cũng được cúng dường, không cần ngàn mắt ngàn tay. Pháp này cũng y theo bản Phạn, chỉ có trên trán Bồ Tát vẽ một con mắt liền được.
Nếu muốn cúng dường pháp môn này. Trước hết, nên vẽ tượng. Pháp vẽ tượng ấy nên làm một Mạn Trà La như pháp.
Khiến người thợ vẽ thọ tám giới trai, ra vào nhà cầu một lần thì tắm rửa một lần. Khi làm xong tượng đó, người thợ vẽ với Chú Sư lo sợ chẳng được như pháp thì đối trước tượng sám hối tội lỗi. Liền đem tượng để trong Đàn, nên tác pháp bày biện cúng dường rộng lớn, đầy đủ hai mươi mốt ngày. Tượng Thiên Tý Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát liền phóng ra ánh sáng lớn vượt hơn mặt trời, mặt trăng. Trừ kẻ chẳng chí tâm.
Pháp tượng Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát ấy.
Trong năm Vũ Đức có vị Bà La Môn ở Trung Thiên Trúc tên là Cù Đà Đề Bà?
Gupta Deva đem Tượng bản này đến dâng hiến, vào bên trong liền chẳng ra nữa.
Thông Thầy Trí Thông xem xét bản Phạn chỉ nói Thiên Nhãn Thiên Tý mà không có tên dịch.
Lại căn cứ vào bản Phạn. Thời Quá khứ, Bồ Tát ở nơi Đức Tỳ Bà Thi Phật cũng hiện làm thân Giáng Phục Ma, trong một ngàn đều tuôn ra một vị Phật dùng làm một ngàn vị Phật đời hiền kiếp, một ngàn cánh tay đều hóa ra một vị Chuyển Luân Thánh Vương Cakrvarttin tức tổng cộng là một ngàn vị Chuyển Luân Vương. Trong Thân Giáng Ma của Bồ Tát thì Thân này là tối thượng đệ nhất.
***