Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế âm Bồ Tát Quảng đại Viên Mãn Vô Ngại đại Bi Tâm đà Ra Ni

PHẬT THUYẾT KINH THIÊN THỦ

THIÊN NHÃN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI

ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Già Phạm Đạt Ma, Đời Đường
 

PHẦN HAI
 

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo Phạm Vương rằng: Này Phạm Vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng Chú này năm biến, kế tụng hai mươi mốt biến, cứ tụng xong mỗi một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy. Tâm Chú Đại Bi đây do chín mươi chín ức hằng sa Chư Phật đời quá khứ đã nói ra.

Các Đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: Công Đức Lục Độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ. Mầm Bồ Đề chưa phát, mau được phát sanh. Hàng Thanh Văn chưa chứng may được chứng quả.

Các vị Thần Tiên trong Cõi Đại Thiên chưa phát lòng Bồ Đề, mau được phát tâm Bồ Đề, nếu chúng sanh nào chưa được tín căn Đại Thừa, do sức oai thần của Đà Ra Ni này, hột giống Đại Thừa tự sanh mầm và tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.

Lại nữa, trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe Thần Chú của ta đây, đều được lìa khổ.

Các vị Bồ Tát chưa lên bậc Sơ Trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi Thập Trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp tùy hình.

Nếu hàng Thanh Văn một phen được nghe qua Chú này, hoặc biên chép, tu hành môn Đà Ra Ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì bốn quả Sa Môn không cầu tự được.

Công lực của Thần Chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong Cõi Đại Thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi Thiết Vi và núi Tu Di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều Phát Tâm Bồ Đề.

Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi, nên giữ trai giới nghiêm sạch trong hai mươi mốt ngày và tụng Trì Chú Đại Bi, tất đều được toại nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt.

Tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, thần, tiên, Long Vương, thảy đều chứng biết cho.

Hàng Trời, người nào thường thọ trì tâm Chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa.

Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng?

Và, như người tụng Chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào Tam Đồ, thường sanh ở trước Chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng Chú thật không thể nghĩ bàn!

Lại nữa, người trì tụng Đà Ra Ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả Thiên Ma ngoại đạo, Thiên, Long, Quỷ Thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.

Người nào trì tụng Đà Ra Ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì chín mươi chín ức hằng hà sa Chư Phật đều yêu quý.

Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.

Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng Đà Ra Ni cứu độ chúng sanh.

Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn Đà Ra Ni.

Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền.

Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh.

Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì Thiên, Long, Thiện Thần thường theo hộ trì.

Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng Đà Ra Ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt.

Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại.

Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì Thiên Ma ngoại đạo không thể bức hại.

Nên biết người ấy chính là Tạng Dược Vương vì thường dùng Đà Ra Ni trị bệnh chúng sanh.

Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi mười phương Cõi Phật.

Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!

Đức Phật bảo Phạm Vương: Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng Chú vào trong áo mà mặc, hoặc tụng Chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng.

Nên nhớ mỗi thứ đều tụng một trăm lẻ tám biến, tất sẽ được sống lâu. Nếu có thể kiết giới đúng pháp, và y như pháp mà thọ trì, thì mọi việc đều thành tựu.

Phép kiết giới như thế nào?

Hoặc Tụng Chú vào lưỡi dao sạch, rạch đất xung quanh làm giới hạn. Hoặc Tụng Chú vào nước sạch, rảy bốn phương làm giới hạn.

Hoặc Tụng Chú vào hột cải trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn. Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc Tụng Chú vào tro sạch, rải xung quanh làm giới hạn.

Hoặc Tụng Chú vào chỉ ngũ sắc, treo vây bốn bên làm giới hạn. Mấy phương pháp trên đây, dùng cách nào cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ hai mươi mốt biến. Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả.

Này thiện nam tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn Đà Ra Ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì?

Nếu người nào được Thần Chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng Chư Phật, gieo nhiều căn lành.

Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp nên biết người ấy là Bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật.

Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng Trì Chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức.

Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới, dụng tâm tinh thành, vì tất cả chúng sanh sám hối nghiệp ác đời trước tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng Đà Ra Ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa Môn.

Nếu là hạng lợi căn, có phương tiện huệ quán thì quả vị Thập Địa còn chứng được không lấy gì làm khó, huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện.

Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập Đàn Tràng để chiếc xương ấy trước tượng thiên nhãn, chí tâm Tụng Chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh, đúng bảy ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo.

Như hành nhân muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì Tụng Chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của Đà Ra Ni này.

Đức Phật lại gọi Ngài A Nan mà bảo: Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị Quốc Vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù Phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc Tụng Chú này.

Hành trì như thế luôn bảy ngày đêm thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui.

Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: Bị nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan Đại Thần mưu phản, bệnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhật, nguyệt sai độ v.v…

Muốn diệt các thứ tai nạn như thế ấy, vị Quốc Vương phải lập Đàn Tràng, tạo Tượng thiên nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu.

Hành trì như thế đúng bảy ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo, thương mến lẫn nhau, trong triều từ Vương Tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi, phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với Vua, các Thiên, Long, Quỷ Thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận hòa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp.

Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau.

Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập Đàn Tràng, hướng về tượng thiên nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng Đà Ra Ni này đủ ngàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh viễn an vui.

Ngài A Nan lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn!

Chú này tên gọi là chi?

Con nên thọ trì như thế nào?

Đức Phật bảo:

Thần Chú này có những tên như sau:

1. Quảng đại viên mãn Đà Ra Ni.

2. Vô ngại đại bi Đà Ra Ni.

3. Cứu khổ Đà Ra Ni.

4. Diên thọ Đà Ra Ni.

5. Diệt ác thú Đà Ra Ni.

6. Phá ác nghiệp chướng Đà Ra Ni.

7. Mãn nguyện Đà Ra Ni.

8. Tùy tâm tự tại Đà Ra Ni.

9. Tốc siêu thánh địa Đà Ra Ni.

Ông nên y như thế mà thọ trì.

Ngài A Nan lại bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát, bộ chủ của Thần Chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn Đà Ra Ni như thế?

Đức Phật bảo: Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn.

Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước từng thành Phật Hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai.

Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, Ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát.

Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm Vương, Đế Thích, Long Thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường.

Nếu tất cả hàng Trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội, mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà.

Đức Phật bảo Ngài A Nan: Thần Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên Tụng Chú vào An Tức Hương hai mươi mốt lần rồi đốt lên.

Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tìm một bộ xương của con mèo đã chết, đốt tan ra tro, rồi hòa với đất bùn sạch, nắn thành hình mèo.

Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng thiên nhãn, tụng một trăm lẻ tám biến Chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành một trăm lẻ tám đoạn.

Nên nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một đao, kêu tên loài ma mèo một lần. Làm như thế bệnh nhân sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại.

Nếu người nào bị chất độc của loài sâu cổ làm hại, thì thân nhân mau dùng Long Não Hương hòa đồng phân với chuyết cụ la hương vào nước trong, sắc còn một chén. Xong, lại để chén thuốc ấy trước tượng thiên nhãn tụng Chú một trăm lẻ tám biến rồi cho bệnh nhân uống, liền thấy an lành.

Nếu bị rắn rít cắn, dùng vị Càn Cương tán thành mạt, tụng Chú vào đấy hai mươi mốt biến, rồi dấp lên vết thương, liền hết.

Nếu bị kẻ thù mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong, lại để hình nhân trước tượng thiên nhãn, tụng vào lưỡi dao một trăm lẻ tám biến Đại Bi, cứ tụng xong mỗi biến lại chém xuống một dao, kêu tên người kia một lần, rồi đem một trăm lẻ tám đoạn hình đã chặt đốt tan.

Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau.

Nếu bị bệnh đau mắt, hoặc mắt kéo màng đỏ, mắt trắng đục, hoặc quáng manh, hoặc hư tròng, không thấy được ánh sáng, nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ một quả, đem nghiền, vắt lấy nước.

Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ, miệng luôn niệm Phật, chớ để cho mèo, chó, gà, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy.

Vắt nước xong đem hòa với bạch mật, hoặc sữa người. Sữa này phải là của phụ nhân sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái.

Khi hòa thành xong, đem chén thuốc để trước tượng thiên nhãn Tụng Chú một trăm lẻ tám biến. Trì Chú vào thuốc rồi, bệnh nhân phải ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian bảy ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt.

Làm như thế, tròng con mắt hư lại sanh, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ. Ba thứ trái này xứ ta không có, bệnh nhân nên phương tiện thay ba thứ trái khác hoặc ba thứ thuốc khác có tánh cách trị bệnh đau mắt, nếu như chí thành, cũng được linh nghiệm.

Nếu bị bệnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy hai mươi mốt biến Chú, rồi phủ lên mình thì bệnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Như được da sư tử thì càng quý.

Nếu bị rắn độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, Tụng Chú hai mươi mốt biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu.

Nếu bị bệnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một chén nước trong, sắc còn nửa chén, tụng Chú vào đấy bảy biến rồi uống, bệnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc.

Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bệnh, dùng hương chuyết cụ la tụng Chú hai mươi mốt biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy bảy khối hương lớn ước lượng bằng lóng tay cái, cũng gia Trì Chú hai mươi mốt biến mà uống, bệnh sẽ lành.

Nên nhớ: Bệnh nhân phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân và mắng chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Thi La hòa với Bạch Giới Tử và muối hột, gia trì Chú hai mươi mốt biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bệnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở Ma Na Thi La là vị thuốc Hùng Hoàng.

Nếu bị tai điếc lùng bùng, tụng Chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bệnh sẽ lành. Nếu bị chứng Thiên Phong, xụi nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi, dùmg dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương, gia Trì Chú hai mươi mốt biến, rồi thoa nơi mình. Bệnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ.

Lại một phương pháp nữa: Dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào hai mươi mốt biến Chú mà thoa, bệnh cũng sẽ lành.

Nếu phụ nhân sanh sản khó, mau dùng dầu mà gia Trì Chú hai mươi mốt biến, rồi thoa nơi rún và ngọc môn, liền được dễ sanh.

Nếu phụ nhân có nghén, thai nhi chết trong bụng, dùng một lượng thuốc Ngưu Tất, đổ hai chén sắc còn một chén, gia Trì Chú hai mươi mốt biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhân không một chút đau đớn. Như thai nhau không ra, cũng uống thuốc này.

Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không kham, đây gọi là chứng độn thi Chú, nên dùng Huân Lục Hương, Tụng Chú vào hai mươi mốt biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bệnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt. Nếu bị phỏng lửa thành ghẻ, dùng phân trâu đen Tụng Chú hai mươi mốt biến mà thoa, bệnh sẽ lành.

Nếu bị sên lải cắn, dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim, như bệnh nặng thì một chén, gia trì phu hai mươi mốt biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây. Nếu bị bệnh ghẻ đinh dùng lá Lăng Tiêu đâm lấy nước, gia Trì Chú hai mươi mốt biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành.

Nếu rủi bị con lằn cắn vào mắt, dùng phẩn mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì hai mươi mốt biến Chú, đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bệnh sẽ lành. Nếu bị đau bụng, dùng nước giếng trong nấu với hai mươi mốt hột muốn lớn, còn nửa chén gia Trì Chú hai mươi mốt biến uống vào, liền hết đau. 

Nếu bị bệnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mờ mịt không thấy, dùng lá câu kỷ đâm lược lấy nước, gia Trì Chú hai mươi mốt biến, rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy bảy biến Chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bệnh sẽ lành.

Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên, lấy chỉ trắng xe thành niệt, gia Trì Chú hai mươi mốt biến, kết thành hai mươi mốt gút buộc nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội.

Nếu trong nhà sanh nhiều tai nạn, dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành một ngàn không trăm tám mươi đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn hai đầu đều thoa mật tô lạc.

Kế đó, đem lò nhỏ để trước bàn Phật, cứ tụng xong một biến Chú, liền đốt một đoạn. Khi thiêu hết một ngàn không trăm tám mươi đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ.

Nếu ở các nơi đấu tranh, luận nghị, muốn được hơn người dùng cành bạch xương bồ gia Trì Chú hai mươi mốt biến, đeo nơi cánh tay mặt, tất sẽ được toại nguyện.

Nếu muốn được trí huệ nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành một ngàn không trăm tám mươi đoạn, mỗi đoạn hai đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất và sữa ngưu tô hòa với bạch mật, cứ mỗi lần Tụng Chú lại đốt một đoạn.

Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời Tụng Chú và đốt một ngàn không trăm tám mươi đoạn. Thật hành đúng bảy ngày, Chú Sư sẽ được trí huệ thông ngộ Mỗi thời tụng một ngàn không trăm tám mươi  biến tất là người tụng quá nhuần, và có định tâm nhiều.

Nếu muốn hàng phục đại lực Quỷ Thần, dùng củi cây Mộc Hoạn Tử, thoa sữa tô lạc và mật vào, đem trước tượng đại bi gia trì, Chú bốn mươi chín biến, rồi đốt trong lửa.

Nếu lấy một lượng Ngưu Hoàng, đem đựng trong bình Lưu Ly, để trước tượng Đại Bi Tụng Chú một trăm lẻ tám biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhân trông thấy đều hoan hỷ.

Nếu thân bị xiềng xích, dùng phẩn của con bồ câu trắng, gia Trì Chú một trăm lẻ tám biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự sút.

Nếu vợ chồng bất hòa, trạng như nước lửa, dùng lông đuôi chim oan ương, đem trước tượng Đại Bi Tụng Chú một ngàn không trăm tám mươi biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn đời vui hòa, thương yêu nhau.

Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ cắn, dùng tro và cát sạch hòa với nước trong, gia trì hai mươi mốt biến Chú, rảy trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại.

Đức Phật lại bảo Ngài A Nan: Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm đại bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện.

Những Chân Ngôn sau đây, chỗ có vạch ngang dài là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có ngang vắn là hai chữ đọc hiệp lại làm một, muốn cầu điều gì, đọc Chân Ngôn theo điều ấy.

1. Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý.

Chân Ngôn rằng: 

Án, Phạ nhật ra, Phạ đa ra, hồng phấn tra.

2. Nếu muốn trị các thứ bệnh trên thân, nên cầu nơi tay cầm cành Dương Liễu.

Chân Ngôn rằng:

Án tô tất địa, ca rị, Phạ rị, đa nẫm đa, mục đa duệ, Phạ nhật ra, Phạ nhật ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng phấn tra.

3. Nếu muốn trị các thứ bệnh trong bụng, nên cầu nơi tay cầm cái bát báu.

Chân Ngôn rằng:

Án, chỉ rị, chỉ rị, Phạ nhật ra, hồng phấn tra.

4. Nếu muốn trị bệnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi tay cầm châu nhật tinh ma ni.

Chân Ngôn rằng:

Án, độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra Phạ rị nảnh, tát Phạ Hạ.

5. Nếu muốn hàng phục tất cả Thiên Ma Thần, nên cầu nơi tay cầm bạt chiết la.

Chân ngôn rằng:

Án nễ bệ nễ bệ, nễ bà dã, ma ha thất rị duệ, tát Phạ Hạ.

6. Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi tay cầm chày Kim Cang.

Chân ngôn rằng:

Án Phạ nhật ra, chỉ nãnh, chỉ nãnh, bát ra nễ bát đa dã, tá Phạ Hạ.

7. Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi tay thí vô úy.

Chân Ngôn rằng:

Án Phạ nhật ra, nẵng dã, hồng phấn tra.

8. Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi tay cầm dây quyến sách.

Chân Ngôn rằng:

Án chỉ rị, lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.

9. Nếu bị bệnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bệnh, nên cầu nơi tay cầm châu nguyệt tinh Ma Ni.

Chân ngôn rằng:

Án tô tất địa, yết rị, tát Phạ Hạ.

10. Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi tay cầm cung báu.

Chân ngôn rằng:

Án a tả vĩ, lệ, tát Phạ Hạ.

11. Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi tay cầm tên báu.

Chân ngôn rằng:

Án ca mạ lã, tát Phạ Hạ.

12. Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, Thần, vọng, lượng, nên cầu nơi tay cầm gươm báu.

Chân Ngôn rằng:

Án đế thế, đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.

13. Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi tay cầm cây phất trắng.

Chân Ngôn rằng:

Án bát na di nảnh, bà nga Phạ đế, mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát Phạ Hạ.

14. Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được hòa thuận nhau, nên cầu nơi tay cầm cái hồ bình.

Chân Ngôn rằng:

Án  yết lệ thảm mãn diệm, tát Phạ Hạ.

15. Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi tay cầm cái bàng bài.

Chân Ngôn rằng:

Án dược các sam nẵng, na dã chiến nại ra, đạt nậu bá rị dã, bạt xá bạt xá, tát Phạ Hạ.

16. Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên cầu nơi tay cầm cây phủ việt.

Chân Ngôn rằng:

Án vị ra dã, vị ra dã, tát Phạ Hạ.

17. Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi tay cầm chiếc vòng ngọc.

Chân Ngôn rằng:

Án bát na hàm, vị ra dã, tát Phạ Hạ.

18. Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi tay cầm hoa sen trắng.

Chân Ngôn rằng:

Án Phạ nhật ra, vị ra dã, tát Phạ Hạ.

19. Nếu muốn được sanh về mười phương Tịnh Độ, nên cầu nơi tay cầm hoa sen xanh.

Chân Ngôn rằng:

Án chỉ rị, chỉ rị, Phạ nhật ra, bộ ra bạn đà hồng phấn tra.

20. Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi tay cầm cái gương báu.

Chân Ngôn rằng:

Án vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, Phạ nhật ra, mạn trà lã, hồng phấn tra.

21. Nếu muốn được diện kiến mười phương tất cả Chư Phật, nên cầu nơi tay cầm hoa sen tím.

Chân Ngôn rằng:

Án  tát ra, tát ra, Phạ nhật ra, hồng phấn tra.

22. Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi tay cầm cái bảo kíp.

Chân Ngôn rằng:

Án Phạ nhật ra, bát thiết ca rị, yết nẵng hàm ra hồng.

23. Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi tay cầm hóa hiện mây ngũ sắc.

Chân Ngôn rằng:

Án Phạ nhật ra, ca rị ra tra hàm tra.

24. Nếu muốn sanh lên Cõi Phạm Thiên, nên cầu nơi tay cầm bình quân trì.

Chân ngôn rằng:

Án Phạ nhật ra thế khê ra, rô tra hàm tra.

25. Nếu muốn được sanh lên các cung Trời, nên cầu nơi tay cầm hoa sen hồng.

Chân ngôn rằng:

Án thương yết lệ, tát Phạ Hạ.

26. Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi tay cầm cây bảo kích.

Chân ngôn rằng:

Án thảm muội dã, chỉ nãnh hạ rị, hồng phấn tra.

27. Nếu muốn triệu tất cả Chư Thiên Thiện Thần, nên cầm nơi tay ống loa báu.

Chân Ngôn rằng:

Án thương yết lệ, mạ hạ thảm mãn diệm, tát Phạ Hạ.

28. Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ thần, nên cầu nơi tay cầm cây gậy đầu lâu.

Chân Ngôn rằng:

Án độ nẵng, Phạ nhật ra.

29. Nếu muốn mười phương Chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên cầu nơi tay cầm xâu chuỗi ngọc.

Chân Ngôn rằng:

Nẵng mồ ra đá nẵng, đát ra dạ dã, Án a na bà đế vĩ nhã duệ. Tất địa tất đà lật đế, tát Phạ Hạ.

30. Nếu muốn có được tất cả Phạm âm thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi tay cầm chiếc linh báu.

Chân Ngôn rằng:

Nẵng mồ bát ra hàm bá noa duệ, án a mật lật đảm, nghiễm bệ thất rị duệ, thất rị, chiếm rị nảnh, tát Phạ Hạ.

31. Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi tay cầm chiếc ấn báu.

Chân Ngôn rằng:

Án Phạ nhật ra, nảnh đảm nhá duệ, tát Phạ Hạ.

32. Nếu muốn được Thiên Thần, Long Vương thường đến ủng hộ, nên cầu nơi tay cầm cu thi thiết câu.

Chân Ngôn rằng:

Án a rô rô, đa ra ca ra, vĩ sa duệ, nẵng mồ tát Phạ Hạ.

33. Nếu vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sanh được nhở sự che chở giúp đỡ, nên cầu nơi tay cầm cây tích trượng.

Chân Ngôn rằng:

Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế na dạ bát nảnh, hồng phấn tra.

34. Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu mến nhau, nên cầu nơi tay hiệp chưởng.

Chân Ngôn rằng:

Án bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.

Theo trong Tạng bản, lại có chân ngôn: Án vĩ tát ra, vĩ tát ra, hồng phấn tra.

35. Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi tay hiện hóa Phật.

Chân Ngôn rằng:

Án chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

36. Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong Cung Điện Phật, không thọ sanh ở bào thai, nên cầu nơi tay hiện hóa Cung Điện.

Chân Ngôn rằng:

Án vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.

37. Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi tay cầm quyển Kinh báu.

Chân Ngôn rằng:

Án a hạ ra, tát ra Phạ ni, nễ dã đà ra, bố nễ đế, tát Phạ Hạ.

38. Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, tâm bồ đề thường không lui sụt, nên cầu nơi tay cầm bất thối Kim Luân.

Chân Ngôn rằng:

Án thiết na di tả, tát Phạ Hạ.

39. Nếu muốn mười phương Chư Phật mau đến xoa đầu thọ ký, nên cầu nơi tay đảnh thượng hóa Phật.

Chân Ngôn rằng:

Án Phạ nhật rị ni, Phạ nhật lãm nghệ tát Phạ Hạ.

40. Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi tay cầm chùm bồ đào.

Chân Ngôn rằng:

Án A ma lã kiếm đế nễ nãnh, tát Phạ Hạ.

41. Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ, nên cầu nơi tay hóa nước Cam Lộ.

Chân Ngôn rằng:

Án tố rô tố rô bác ra tố rô, bác ra tố rô, tố rô dã, tát Phạ Hạ.

42. Nếu muốn hàng phục ma oán trong Cõi Đại Thiên, nên cầu nơi tay tổng nhiếp thiên thủ.

Chân Ngôn rằng:

Đát nễ dã thá, Phạ lồ chỉ đế, thấp Phạ ra dã, tra ô hạ di dã, sá Phạ ha.

Này A Nan!

Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi.

Khi ấy Nhật Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói đại Thần Chú để ủng hộ rằng:

Nam Mô bột đà cù na mê. Nam Mô đạt ma mạc ha đê. Nam Mô tăng già đa dạ nê, đế chỉ bộ tất đát đốt chiêm nạp ma.

Nhật Quang Bồ Tát bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tụng Chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng Chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm ba thời tụng Chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng.

Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhân mà nói Đà Ra Ni để ủng hộ rằng:

Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá Phạ Hạ.

Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tụng Chú này năm biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia Trì Chú vào, buộc tréo nơi tay, Chú này do bốn mươi hằng sa Chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhân mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bệnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi.

Đức Phật bảo Ngài A Nan: Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm Đà Ra Ni này và lưu bố rộng ra trong Cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà Ra Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi.

Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng Đà Ra Ni này mà trị thì không bệnh nào chẳng lành, dùng Đại Thần Chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư?

Nếu thân bị đại bệnh, dùng Chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có.

Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi Tâm Đà Ra Ni không thể nghĩ bàn!

Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy.

Nay đại chúng các ông, cả hàng Trời, người Long Thần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ. Nếu kẻ nào hủy báng Thần Chú này tức là hủy báng chín mươi chín ức hằng hà sa Chư Phật kia.

Nếu người nào đối với Đà Ra Ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi.

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Mật Tích, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, Thiên, Long, Quỷ Thần, nghe Đức Như Lai khen ngợi môn Đà Ra Ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành.

***