Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Thương Chủ Thiên Tử Sở Vấn
PHẬT THUYẾT KINH
THƯƠNG CHỦ THIÊN TỬ SỞ VẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẦN BA
Bấy giờ, Thiên Tử Thương Chủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi!
Hôm nay Ngài đã giảng, thế nào là hạnh của Bồ Tát?
Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên Tử! Hạnh của Bồ Tát là không thể nghĩ bàn.
Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là hạnh của Bồ Tát là không thể nghĩ bàn?
Đáp: Này Thiên Tử! Tham dục là chẳng thể nghĩ bàn. Hạnh của Bồ Tát cũng không xa lìa hành tham dục. Hành theo sự giận dữ là không thể nghĩ bàn, hạnh của Bồ Tát cũng không xa lìa hành giận dữ. Hành theo ngu si là chẳng thể nghĩ bàn, nên hạnh của Bồ Tát cũng thực hành theo trí tuệ.
Hành chẳng ganh ghét là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ đến bố thí. Hành xa lìa việc phá giới là hạnh của Bồ Tát, không nhớ nghĩ về hành trì giới. Hành không giận dữ hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành nhẫn nhục.
Hành chẳng biếng nhác là hạnh của Bồ Tát, cũng chẳng nhớ nghĩ về hành tinh tấn. Hành không tán loạn là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành thiền định. Hành chẳng phải là không có trí là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành trí tuệ.
Hành theo không não hại là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành xa lìa phiền não.
Hành không từ là hạnh của Bồ Tát, vì bố thí các sự vật bên trong.
Hành không bi là hạnh của Bồ Tát, vì bố thí vợ con: Nam, nữ.
Hành không vui thích là hạnh của Bồ Tát, vì tác động của các dục là không nhàm chán.
Hành thường không giận dữ là hạnh của Bồ Tát, vì tích tập các căn lành.
Hành không xả bỏ là hạnh của Bồ Tát, vì xả bỏ thân mạng.
Hành không luyến tiếc là hạnh của Bồ Tát, vì xả bỏ mọi sự thương ghét.
Hành không sợ hãi là hạnh của Bồ Tát, vì không gần gũi với hành phiền não, sinh tử.
Hành theo trách nhiệm lớn là hạnh của Bồ Tát, vì có trách nhiệm lớn đối với tất cả chúng sinh.
Hành không bức bách là hạnh của Bồ Tát vì từ xa xưa đã phát nguyện cứu độ chúng sinh.
Hành không hối tiếc là hạnh của Bồ Tát, vì không hối hận thoái chuyển.
Hành tối thượng là hạnh của Bồ Tát, vì tất cả đều tối thượng, tối thắng.
Hành mặc áo giáp Kim Cang là hạnh của Bồ Tát, vì khéo lập thệ nguyện luôn được đầy đủ.
Hành theo tự tâm vắng lặng là hạnh của Bồ Tát, vì tâm của tất cả chúng sinh đều vắng lặng.
Hành không lỗi lầm là hạnh của Bồ Tát, vì sự tạo nghiệp không lỗi lầm.
Hành không dấy khởi sự phân biệt là hạnh của Bồ Tát, vì tâm của hết thảy chúng sinh đều bình đẳng.
Hành dũng mãnh là hạnh của Bồ Tát, vì để hàng phục bao thứ oán địch.
Hành không xen tạp là hạnh của Bồ Tát, vì tùy thuận với bạn bè thiền định.
Hành vui vẻ là hạnh của Bồ Tát, vì đối với tất cả các việc xấu ác đều khiến hoan hỷ.
Hành hết sức vui mừng là hạnh của Bồ Tát, vì luôn được hoan hỷ thấy Phật, nghe pháp, phụng sự Tăng.
Hành trang nghiêm là hạnh của Bồ Tát, vì dùng thân, khẩu, ý để trang nghiêm Cõi Phật.
Hành không bị hàng phục là hạnh của Bồ Tát, vì mọi lợi ích hỗ trợ đều bình đẳng.
Hành không chê bai là hạnh của Bồ Tát, vì được hàng trí thức khen ngợi.
Hành không bức bách là hạnh của Bồ Tát, vì quán xét đúng đắn các phiền não.
Hành theo hàng trượng phu hiền thiện là hạnh của Bồ Tát, vì gánh vác trọng trách, nhằm đạt đến giải thoát.
Hành tạo lợi ích là hạnh của Bồ Tát, vì luôn tinh tấn, vững chắc, không biếng nhác thoái lui.
Hành đúng theo pháp là hạnh của Bồ Tát, vì khéo tu tập các pháp trợ đạo.
Hành biết ân và báo ân là hạnh của Bồ Tát, vì chẳng đoạn trừ chủng tánh của Phật.
Hành theo những điều quý báu là hạnh của Bồ Tát, vì luôn tán dương sự giảng nói về Tam bảo.
Hành theo phương tiện trí tuệ là hạnh của Bồ Tát, vì không đoạn trừ các nhiếp pháp.
Khi giảng nói hạnh của Bồ Tát thì có năm trăm Bồ Tát hội nhập vào hạnh của Bồ Tát, đạt được pháp nhẫn vô sinh.
Bấy giờ, Thiên Tử Thương Chủ lại bạch Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Ngài thật khéo giảng nói các hạnh của Bồ Tát. Nếu Bồ Tát nào không xa lìa hạnh này thì các vị ấy được Đức Phật thọ ký.
Lúc ấy, Đức Phật bảo Thiên Tử Thương Chủ: Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói!
Này Thiên Tử! Như Lai vào thuở xa xưa đã không xa lìa những hạnh này, nên được Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, lúc ấy, ta đã chứng được pháp nhẫn vô sinh.
Này Thiên Tử! Đây là hạnh thần thông đại trí của Chư Phật và Bồ Tát.
Thiên Tử Thương Chủ thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Vô sinh là thế nào?
Ở bên trong, bên ngoài của những pháp nào gọi là đạt được vô sinh?
Đáp: Này Thiên Tử! Vô sinh là vốn tự chẳng sinh. Tướng của chỗ tận cùng chính là nghĩa vô sinh. Tướng ấy trước chẳng sinh thì sau cũng không sinh, mà đối với vô sinh thì vốn không có chỗ sinh.
Nhưng vô sinh ấy, trước đã không có nơi sinh thì sau cũng chẳng có chỗ sinh. Vì tự tánh xưa nay vốn không có nơi chôn phát sinh. Do nghĩa này nên trước không có nơi sinh thì về sau cũng không có chôn dấy khởi. Vì tự tánh xưa nay là không có nơi chôn xuất sinh.
Vô sinh ấy trước đã không thể tạo tác, do đó về sau cũng không thể tạo tác, vì tự tánh xưa nay là không thể tạo tác. Vô sinh ấy trước đã không có, nên đôi với sau cũng lại không có, tức rốt ráo là không có. Vô sinh ấy từ trước đã không đi vào cõi luân hồi, do đó về sau cũng không bị lệ thuộc vào luân hồi, vì bản tánh là không.
Vô sinh ấy trước là vô tướng, không thể nêu ra, không thể chỉ bày, vì thế về sau cũng không có tướng để có thể nêu bày, chỉ dẫn. Như vậy là các pháp vốn không có tướng. Nếu người hiểu biết được như vậy thì cũng không khởi tâm phá bỏ sự lãnh hội kia, do ý nghĩa này nên gọi là vô sinh.
Thiên Tử hỏi: Thế nào gọi là nhẫn?
Vô sinh như thế, tất cả chúng sinh đều thọ nhận như thế nên gọi là nhẫn. Vô sinh như thế, đối với hết thảy các cõi đều thọ nhận như vậy, nên gọi là nhẫn. Vô sinh như thế, đôi với các bậc hữu học, vô học, Bích Chi Phật đều có thể thọ nhận, nên gọi là nhẫn.
Vô sinh như thế, đối với tất cả pháp Phật, tất cả hành của Bồ Tát, hết thảy Chư Phật đều có thể thọ nhận, nên gọi là nhẫn. Vô sinh như vậy, đối với tất cả các pháp đều có thể thọ nhận, nên gọi là nhẫn.
Nhưng vô thì do đâu gọi là vô?
Vì vô của vô nên gọi là vô, là không của không nên gọi là vô. Là vô tướng của vô tướng nên gọi là vô. Như không, vô tướng, không tướng nên là vô. Nếu pháp là vô tức không duyên hợp, nếu không duyên hợp tức là vô dục, nếu vô dục tức là chân tánh, nếu là chân tánh tức gọi là vô tánh.
Tất cả các pháp là vô, là không có duyên hợp, xa lìa hư vọng. Nếu đốì với tất cả pháp mà thọ nhận như vậy thì gọi là nhẫn, nhẫn đó cũng là không. Do nhẫn là không nên, không có ngã bình đẳng như vậy nên Bồ Tát sẽ được thọ ký chứng đắc pháp nhẫn vô sinh. Như pháp nhẫn ây cũng không thể nhận biết, thủ đắc.
Trong ấy, thủ đắc có nghĩa là gì?
Hoặc là ngã, hoặc là nhẫn, cả hai đều thủ đắc, thì gọi là thủ đắc. Hoặc chúng sinh, hoặc thọ mạng, hoặc người được nuôi dưỡng, hoặc nhẫn, nếu nhận biết tất cả thì gọi là thủ đắc.
Thế nào là không thủ đắc về nhẫn, đạt được chỗ chân thật của tự tánh?
Đối với chân tánh ấy của nhẫn, theo ý nghĩa đó, không chấp giữ chủ thể và đối tượng, cả hai đều chứng nhập, gọi là không thủ đắc. Lược nói về ấm, giới, các nhập, đối với tất cả các pháp hiện có nhận biết bản tánh nên gọi là tánh không.
Nếu là tánh không tức là vô vi, như tánh của vô vi. Phàm có chỗ tạo tác thì cũng như tánh ấy. Nếu đối với bản tánh không thấy có chủ thể và đối tượng, thì chỗ chứng biết như vậy gọi là không thủ đắc.
Này Thiên Tử! Đại Bồ Tát có thể thực hành nhẫn ấy thì ở trong A tăng kỳ kiếp sẽ thành tựu đầy đủ các nhẫn như vậy. Đó là hạnh thần thông đại trí của Bồ Tát.
Lúc nêu giảng pháp nhẫn này thì tam thiên đại thiên thế giới đều hiện đủ sáu cách chấn động, tất cả ánh sáng chiếu khắp thế gian, trăm ngàn thứ âm nhạc chẳng tấu mà tự vang lên, từ nơi hư không mưa xuống vô số các loại hoa, có bốn vạn chúng sinh phát tâm bồ đề cầu đạo quả Vô Thượng, Chánh Giác, chín vạn sáu vạn chúng sinh đạt được pháp nhẫn tùy thuận.
Do thần lực của Đức Phật và diệu lực của pháp nên khiến cho tất cả thế giới này hiển hiện giống như thuở xưa lúc Đức Phật Nhiên Đăng đi vào thành Liên hoa.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền mỉm cười, như pháp của Chư Phật có vô lượng trăm ngàn màu sắc ánh sáng từ kim khẩu của Đức Phật Thế Tôn phát ra, như các màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, pha lê… chiếu đến vô lượng, vô biên thế giới, tỏa sáng khắp nơi, trở lại nhiễu quanh Đức Thế Tôn ba vòng rồi nhập vào nhục kế của Phật.
Khi ấy, Tôn Giả A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, quỳ gối sát đất, hướng đến Phật, chắp tay đúng như pháp, thưa hỏi:
Con hỏi Thế Tôn, bậc đức lớn
Hỏi Phật, bậc ánh sáng trang nghiêm
Con hỏi bậc đã dứt phiền não
Vì sao Mâu Ni hiện mĩm cười?
Con hỏi Phật hàng phục ngoại đạo
Con hỏi Thế Tôn trừ các ma
Con hỏi Thế Tôn, bậc mười lực
Vì sao Mâu Ni hiện mỉm cười?
Con hỏi Thế Tôn sắc thù thắng
Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm
Khéo hay làm bậc Đại hoan hỷ
Nay Thế Tôn vì sao mỉm cười?
Con hỏi biển trí, cây giấc ngộ
Được trí tuệ giáo hóa thế gian
Thị hiện vô biên pháp trí tuệ
Vì sao Thế Tôn nay mỉm cười?
Danh xưng ba cõi lưu truyền khắp
Tăng trưởng ba minh, trừ ba cấu
Được ba giải thoát, chủ bã cõi
Nay mỉm cười chắc có nhân duyên?
Bậc lương y giỏi trừ sinh tử
Ngón tay, chân xoay tròn màng báu
Thân kim cương hơn Na La Diên
Mâu Ni thuyết giảng phóng hào quang.
Nay ai ở trong hạnh thanh tịnh
Hiện tại ai đầy đủ các nhẫn?
Ai sẽ tin đức của Chư Phật?
Vì thế nay Mâu Ni mỉm cười.
Không ai sánh bằng thân Thế Tôn
Đạo sư khéo hiển bày ánh sáng
Lành thay, xin Đức Thế Tôn diễn nói
Chúng sinh nếu nghe sinh hoan hỷ.
Tôn Giả A Nan nói kệ xong, Đức Phật bảo: Này A Nan! Lúc Như Lai thuyết giảng Kinh Pháp này là gốc của các Kinh, ở trong chúng hội có bảy vạn hai ngàn chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Lại có ba vạn hai ngàn Bồ Tát được pháp nhẫn vô sinh.
Này A Nan! Ông có thấy Thiên Tử Thương Chủ này không?
Bạch Thế Tôn, con đã thấy!
Phật lại bảo Tôn Giả A Nan: Thiên Tử Thương Chủ ấy từ xưa đã từng cúng dường vô số Chư Phật, phụng hành, tôn kính, siêng cầu học, thưa hỏi nghĩa lý, khuyến thỉnh lại còn khuyến khích vô lượng chúng sinh thực hành theo đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, khiến được an trụ chỗ thích hợp.
Này A Nan! Thiên Tử Thương Chủ ấy trải qua hai A tăng kỳ kiếp, sẽ chứng đắc đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, hiệu là Phật Công Đức Vương Quang Minh, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời. Thế Giới của Đức Phật ấy tên là Thanh Tịnh, kiếp tên là Vô Cấu.
Này A Nan! Thế Giới Thanh Tịnh ấy do bảy báu hợp thành, Cõi Phật ấy bằng phẳng như lòng bàn tay, có tám lớp lưới báu trang nghiêm rủ xuống khắp chôn.
Cõi Phật đó không có tên gọi của hàng nhị thừa, cũng không có các thứ ngoại đạo, các ma, không có người tạo năm thứ tội ngũ nghịch, không có người chê bai chánh pháp của Phật. Cõi nước của Phật ấy xa lìa tám thứ nạn, tùy theo ý nghĩa trong tâm mà mọi thứ ăn uống liền hiện ra, cũng không có âm thanh nói về phá giới, các khổ hoạn.
Chúng sinh nơi thế giới ấy thọ nhận phước báo an lạc giống như ở Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, thân tướng màu vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hầu hết được an trụ nơi đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế cõi ấy có tên là Thanh Tịnh.
Thọ mạng của Đức Phật Công Đức Vương Quang Minh là một ngàn bôn mươi kiếp. Các vị Bồ Tát nơi cõi nước của Đức Phật đó đều do nguyện lực, trong khoảng thời gian ấy, tùy theo tâm nguyện mà xả bỏ thọ mạng. Đức Như Lai kia có sáu mươi hai ức chúng Đại Bồ Tát.
Này A Nan! Nay có Bồ Tát phát tâm cầu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề và đạt được pháp nhẫn vô sinh, tất cả các vị ây đều được vãng sinh vào cõi nước Thanh Tịnh kia và còn được Đức Như Lai Công Đức Vương Quang Minh thọ ký thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Bấy giờ, trong chúng hội có một Thiên Tử tên là Quán Tức dùng hoa Trời Mạn Đà La tung rải lên chỗ Đức Phật và thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu lúc Đức Phật Công Đức Vương Quang Minh chứng đắc đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, con nguyện sẽ ở trong Thế Giới Thanh Tịnh ấy làm vị Chuyển Luân Thánh Vương, thường cúng dường Đức Phật và các vị Bồ Tát. Con nguyện sau đời Đức Phật ấy, sẽ thành tựu đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan: Này A Nan! Thiên Tử Quán Tức này vào thời Đức Phật Công Đức Vương Quang Minh chứng minh đạo quả bồ đề, thì ở trong thế giới đó, sẽ làm vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thiện Kiến, dùng vô lượng, vô biên, vô số phẩm vật để cúng dường Đức Phật ấy, thực hiện viên mãn pháp trợ bồ đề.
Sau Đức Phật ấy, thì Thiên Tử này sẽ xuất hiện ở đời, chứng đắc đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, hiệu là Phật Phổ Quang Minh, gồm đủ mười tôn hiệu.
Này A Nan! Vua Thiện Kiến ấy, làm lễ quán đảnh cho Thái Tử xong, ở trong giáo pháp của Đức Phật kia một thời gian, rời bỏ ngôi Vua, xuất gia học đạo. Khi Đức Như Lai kia sắp nhập Niết Bàn, thọ ký cho Bồ Tát ấy, rằng: Bồ Tát Thiện Kiến này tiếp theo sau đời ta, sẽ chứng đắc đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.
Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất bảo Thiên Tử Thương Chủ: Này Thiên Tử! Như Lai đã thọ ký cho ông chăng?
Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Đức Phật thọ ký cho tôi giống như Đức Như Lai đã tạo ra người biến hóa và trao pháp thọ ký. Tánh như như nay cũng vậy, như như ỡ đời vị lai cũng vậy, ỡ hiện tại cũng thế, vì như như là không tăng giảm.
Đức Thế Tôn lại bảo Tôn Giả A Nan: Này A Nan! Ông đã thọ lãnh pháp này, nên phụng trì giảng nói, đọc tụng, cần tăng thêm sự tu tập, vì người khác mà giảng nói rộng, để tạo nhiều lợi ích, an lạc cho họ. Cũng vì sự lợi ích an lạc của các Đại Bồ Tát ở đời hiện tại và vị lai mà thâu nhận rộng khắp.
Bấy giờ, Tôn Giả A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con đã thọ nhận kinh này.
Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì?
Chúng con sẽ phụng trì như thế nào?
Phật bảo Tôn Giả A Nan: Kinh này tên là Thần Thông Ưu Ba Đề Xá, ông nên theo đó mà phụng trì. Kinh này gọi là Văn Thù Sư Lợi Đồng Chân Bồ Tát Sở Thuyết, ông nên theo đấy mà phụng trì. Cũng gọi là Thương Chủ Thiên Tử Sở Vấn, ông nên theo đấy mà thọ trì.
Đức Phật giảng nói Kinh này rồi, Tôn Giả A Nan và các Tỳ Kheo khác, Thiên Tử Thương Chủ và vô lượng, vô biên, vô số, cho đến hàng ức các Thiên Tử khác, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và vô lượng A tăng kỳ Bồ Tát khác ở vô số thế giới khắp trong mười phương đã hội đủ, các Đại Bồ Tát và tất cả tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Nhân Phi Nhân, A Tu La… nghe Phật giảng nói đều hoan hỷ phụng hành.
***