Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La
PHẬT THUYẾT
KINH TÔ TẤT ĐỊA YẾT LA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Du Ba Ca La, Đời Đường
PHẨM BA MƯƠI BẢY
PHẨM BỊ THÂU THÀNH VẬT
KHƯỚC TRƯNG PHÁP
Ta nay sẽ nói các vật bị thâu khước là Trưng Pháp. Các vật thành rồi, hoặc lúc làm thành tựu các vật bị thâu, lúc thâu vật, hoặc thấy hình tướng, hoặc chỉ mất vật không thấy người thâu.
Đối với thời không chọn ngày đêm, cũng không đoạn thực, phát khởi sân nộ, hiện tiền khiến nên làm pháp Mạn Trà La này. Dùng Thiên Thi hôi tro xác chết bị thiêu ở ba góc mà làm. Chỉ mở cửa phía Tây. Ở ngồi trước cửa an trí Bổn Tôn. Góc nội viện phía Đông an trí Tô Tất Địa Yết Ra Minh Vương.
Bên hữu an trí Kim Cang Phẫn, bên tả an trí Đại Nộ.
Bên hữu an trí Kim Cang Quyền, bên tả an trí Kim Cang Câu.
Bên hữu an trí Kim Cang Kế Lợi Kiết La, bên tả an trí Tỳ Ma.
Bên hữu an trí Nhiệt Tra, bên tả an trí Tân Nghiệt La.
Bên hữu an trí A Thiết Ninh, bên tả an trí Thương Yết La.
Bên hữu an trí Vi Nhã Da, bên cửa hữu an trí Ca Lợi, bên cửa tả an trí Nan Địa Mục Khư, bên tả an trí Kim Cang Quân.
Bên hữu an trí Tô Ma Hô và an trí hết thảy Đại Phẫn Nộ v.v…
Vì thành tựu, thứ lớp an trí như pháp khải thỉnh, dùng hoa màu đỏ v.v… thứ lớp cúng dường. Như trước đã nói pháp A Tỳ Giá Rô Ca ở đây nên làm.
Ngồi cửa chỗ an trí Bổn Tôn, nên dùng mỹ diệu hoa v.v… như pháp cúng dường. Ở ngoại viện an trí Bát Phương thần và an trí Bổn Bộ các sứ giả đẳng Tôn v.v… cũng nên như thế cúng dường.
Ở trung ương làm pháp Hộ Ma, ở ba góc là mỗi mỗi như trước. Lấy Thất Mai Kiên Khước Địa La, lấy máu thân mình thoa mà dùng Hộ Ma. Hoặc dùng khổ luyện mộc, hoặc dùng thiêu thi tàn sài mà Hộ Ma.
Sau khi bỏ vào lửa lấy thiêu thi hôi hòa với máu mình mà Hộ Ma, và dùng độc dược, máu của mình, dầu Bạch Giới Tử và Xích Giới Tử, bốn món cùng hòa mà làm Hộ Ma. Lại lấy bốn vật làm hình tượng thâu vật mà ngồi ở trên, lấy tay tả bẻ cắt nhỏ mà lấy làm Hộ Ma. Nếu có thể hàng phục người sân và môn pháp của người thì nên làm pháp này.
Kẻ thâu vật kinh hồn khiếp sợ, mang đồ đến cho hành giả, đáng cho thì nên cho, khiến kẻ kia không còn sợ hãi. Lúc đó cùng với người kia làm pháp Phiến Để Ca, nếu không làm người kia liền mạng chung, vật đem đến liền được gia thêm, bí mật mà an trí trước Bổn Tôn.
Lại nữa vật bị cắp muốn thành tựu, ngày đem đến quá chậm nếu muốn truy tìm đuổi lấy, liền nên làm pháp này thông khắp ba bộ. Ở bốn phương thành biện chư sự Mạn Trà La mà làm. Ở trung ương an trí Tô Tất Địa Yết Ra Minh Vương.
Mặt nội viện phía Nam an trí Kim Cang Phẫn Nộ, Đại Phẫn, Mang Mãng Kê, Kim Cang Câu Thực, Kim Cang Quyền, Kim Cang Hỏa, Kim Cang Mẫu Đặc Già La, Kim Cang Bố Úy, Kim Cang Thương Yết Ra, Tỏa Kế Lợi Yết La, Huệ Kim Cang Vô Năng Thắng và an trí Chư Đại phẫn nộ và chư sứ giả, Chư Đại oai đức chân ngôn chủ v.v… ở phía Nam thứ lớp an trí.
Mặt nội điện phía Bắc an trí Năng Mãng Chư Nguyện, Quán Tự Tại, Mã Đầu Minh Vương, Đa Diện Đa Thủ hay hiện nhiều hình Da Du Mạt Đế, Đại Kiết Tường, Lạt Khất Sáp Nhị, Thấp Phệ Đa Bán Noa Ra Phạ Tất Ninh Đa Ra, Kiến Nại Ra, Mạc Ra, chỗ có chân ngôn và chánh chân ngôn chư Sứ Giả v.v… mỗi mỗi thứ lớp như pháp an trí.
Mặt hướng nội viện phía Đông, an trí hết thảy Kim Luân Phi Đảnh, chư Dư Phật Đảnh, Phật Hào, Phật Nhãn, Phật Thước Để, Phật Nha, Phật Từ và hết thảy Vô Năng Thắng tự Dư Minh Chủ và hết thảy Năng Biện Chư Sư chân ngôn, Chư Dư chân ngôn và chư Sứ Giả. Mặt phía Đông mỗi mỗi thứ lớp như pháp an trí gần hai bên cửa và ngồi cửa cũng như trước y pháp an trí.
Ở ngoại viện an trí Bát Phương thần. Ở bên cửa Tây Nam an trí Phạm Thiên Vương và cùng quyến thuộc.
Bên cửa Tây Bắc an trí Ma Hê Thủ La và hết thảy Phi Ngôn Na Bát Để đầy đủ chư quyến thuộc và Thất Mang Đát Ra Mẫu, và Bát Long Vương cùng chư quyến thuộc, A Tu La Vương cùng chư quyến thuộc, quy y Phật Đại Oai Đức thần. Ở ngoại viện mỗi mỗi thứ lớp như pháp an trí, chí thành khải thỉnh thứ lớp cúng dường.
Ngồi mặt phía Tây an trí lò Hộ Ma, lấy sáp ong làm hình tượng kẻ trộm vật, an trí trong Ky Ky. Y pháp A Tỳ Giá Rô Ca khải thỉnh thờ tự, cúng dường Hộ Ma.
Kế đến lấy dao cắt hình mà Hộ Ma, hoặc y bổn bộ đã nói pháp A Tỳ Giá Rô Ca, y kia mà làm. Hoặc Bổn Tôn tự mất và không cùng thành tựu cũng như thế mà làm. Từ tháng hắc nguyệt ngày năm cho đến ngày mười bốn, giữa thời gian làm pháp gọi là Thắng Đạt.
Đối hình tượng lại lấy gậy, roi và lửa đốt, dùng các pháp mạnh như bưng đánh, lấy mạt đát na thứ, y pháp Kim Cương Quyết, cắt phân thân, lấy dầu hắc giới tử hòa với muối, thoa khắp trên thân, tùy ý khổ sở mà hại đó.
Lại lấy áo người chết mà che trên hình, lấy chỉ đỏ quấn chung quanh, hiến cúng hoa màu đỏ, người trì tụng dùng đôi mắt tức giận, ở trong chân ngôn để câu: Kha Trạch quở mắng, mỗi ngày đánh, nếu đem vật lại liền dừng nghỉ. Giữa đêm nên làm pháp Mãnh Lợi, dùng câu trưng na mộc, thoa dầu hắc giới tử mà làm Hộ Ma.
Lại lấy thuốc độc và máu của mình, dầu giới tử, muối và hắc giới tử tương hòa các vật, xưng tên kẻ trộm vật mà làm Hộ Ma. Trải qua tụng tám trăm biến, hoặc chỉ dùng máu của mình hòa với muối mà Hộ Ma. Như vậy là Khỗ Trị. Nếu vật không trở lại tức nên thay đổi làm pháp mạnh cho đến chết.
Đối với trong pháp A Tỳ Giá Rô Ca đã nói sát pháp, là pháp biến khắp mà làm. Ở chân ngôn để câu Kỳ Sát giết kẻ kia. Nếu vật mang đến liền dừng pháp lại, người kia khiến theo xin hoan hỷ. Nếu người kia trả lại các vật hay thay thế các vật, cũng dừng lại.
Hoặc dùng các vật xong, lại không vật thế, chỉ đến hối lỗi tạ tội cũng dừng làm. Hoan hỷ bố thí cho người kia, hoặc người kia tổn mất và phân chia người khác, tùy các vật còn dư trả lại, thì cũng dừng việc.
Hoan hỷ bố thí cho người kia, phải nên lấy Kim Cang Trưng Na Ra chân ngôn mà làm Hộ Ma. Hoặc dùng Đại Nộ hoặc dùng Bất Tịnh Phẫn Nộ mà làm Hộ Ma, hoặc ở đương bộ đã nói khước truy thất vật chân ngôn mà làm Hộ Ma, tuy nhiên ba món chân ngôn này thông dụng ba bộ.
Chân Ngôn rằng:
Nẵng mỗ ra đát nẵng đát ra dạ dã nẵng mãng thất chiến noa phạ nhựt ra ky nĩnh duệ mãng hạ dược khất sa tế na nẵng bát đa duệ úm hạ la hạ la phạ nhựt ra mãng tha mãng tha phạ nhựt ra độ nãng độ nãng phạ nhựt ra hạ nẵng hạ nẵng phạ nhựt ra bát dã bát dã phạ nhựt ra nại la nại la phạ nhựt ra na ra dã na ra dã phạ nhựt ra na ra dã vĩ na ra dã phạ nhựt ra sân na sân na phạ nhựt ra tần na tần na phạ nhựt ra hồng phấn tra.
Được vật kia rồi, hoặc được thế vật, liền hộ vật kia và gồm hộ thân. Đương ở tiết nhật thứ lớp mà làm hết thảy pháp quang hiển, trung thành tựu vật và hạ thành tựu một phần nên phụng cúng Thế Tôn, một phần nên phụng cúng A Xà Lê, ra ngồi Mạn Trà La lấy một phần trước phụng cúng của người thành tựu, một phần sẽ cùng với những người đồng bạn.
Thứ đến lấy năm phần, tự mình thọ dụng, hoặc chia làm hai phần, một phần tự thọ dụng, một phần phụng cúng tứ xứ, các vật chưa có, pháp đều y như vậy. Trước lấy ứ già phụng hiến Tôn đẳng, sau lấy phần Bổn người thành tựu trước, phần lấy cúng dường ứ già.
Giá trị vật gấp bội phần, tự lấy thọ dụng, đem vật giá trị kia mà cúng dường vậy. A Xà Lê nếu lúc không còn tại thế, phân ra thù đáp giá trị mà tự thọ dụng, người kia sanh tâm tàm quý tức là giá trị ngoại Mạn Trà La.
Trước lúc phụng cúng nên làm thành tựu nói: Các việc thành tựu trước thọ lấy bổn phần. Tay cầm ứ già lần thứ hai, lần thứ ba nên như vậy mà xướng. Nếu không lấy liền cầm cho người đồng bạn, chớ nên ôm lòng lo lắng nghi kỵ, vì kẻ kia đem tâm kiền thành lấy cúng dường, kiên trì giữ giới làm người hầu cận tức là thành tựu như ở trước.
Thế cho nên phân chia hết thảy vật kia nên thọ xướng ba lần: Người đồng bạn kia được quả báo như vậy, con và tất cả liền thành tựu như trước, người tu hành tự mình phân các vật hết thảy cho đồng bạn, các vật kia nếu ít không có thể phân như an Thiên na và hết thảy ngưu huỳnh chẳng có thể phân chia vậy.
Ta nên dụng tâm phân lượng mà tự thọ dụng. Có các vật như thế chỉ có một người dùng chẳng có thể phân chia. Hết thảy Luân đeo v.v… tùy nơi bổn pháp đã nói thành tựu nên như vậy mà làm. Hết thảy dung tượng cũng không có thể phân chia.
Ở trong bổn pháp các vật thành tựu số lượng tuy ít, tùy gia thêm bổn lượng mà làm thành tựu cùng với hết thảy đồng bạn, hoặc y trước số lượng vật, người thành tựu mà làm thành tựu, dẫu phân nữa cũng được thành tựu. Hoặc ở bổn pháp đã nói phân lượng đều nên y đó mà thực hành.
Người tu hành lúc phân chia vật cùng với đồng bạn, nên ở chỗ phân đó mà nói rằng: Các ông tùy nơi tôi mà làm việc sai khiến các thứ người kia vâng theo làm việc rồi sau mới nên cho họ. Hoặc nếu một thân thành tựu thì lợi ích tất cả, y Tạng Giáo này hoặc trong các pháp, đều cùng nhau thông hứa, lúc phân cho đồng bạn, tùy công lao thời tiết kỳ hạn mà phân vật, không nên bỗng dưng phân phát.
Các vật đã thành tựu trước nên cúng dường Bổn Tôn, sinh lòng tàm quý sâu xa ân cần tái thỉnh, nhiên hậu mới có thể phân chia, tất cả các bộ pháp đều cũng như vậy.
Nên biết định đúng thế này là trung hạ thành tựu, sinh lòng tàm quý sâu xa, cung kính cúng dường và bố thí tài vật, đã được thì nên tiến tới, y chỗ phân dùng việc như thế.
Khi hồn trả những vật giá trị. Vật thành tựu rồi trước hiến cúng ứ già, như pháp phân cho, tụng bổn chân ngôn và dùng Tác Thủ Ấn. Lấy tâm quán niệm Bổn Tôn và tụng Kinh Vương Phi chân ngôn cho đến quán niệm, nhiên hậu thọ dụng các vật.
Tùy ý bay vào hư không, cho đến chỗ Chúng Tiên, không có thể tổn hoại và bị khinh thường. Từ chỗ có ốn địch cũng không thể tổn hoại. Thành tựu các vật kia thường niệm Bổn Tôn không nên bỏ mất. Thành tựu các vật thường nên tâm niệm, hoặc dùng mắt xem.
Vì trì tụng Minh Vương chân ngôn cho nên được Chư Thiên cung kính, trì Phi Minh không có các sợ hãi. Tác Tam Ma Gia Ấn và tác Bộ Ấn, mắt xem thấy các vật đều chẳng nên rời bỏ cùng Tiên Chúng tương kiến.
Nên trước khởi tâm cung kính mà vấn hỏi Thiên Lai an lạc lại từ nơi nào đến?
Nếu chỗ hỏi kia và lời nói lành mà đáp, lúc du hành trên không gian nên ở cao quá thần miếu và độc thọ, ngã tư đường và các chỗ ở Chư Thiên.
Lấy thành quách tế tự làm đàn. Chỗ Bà La Môn tập hội, giả sử chỗ cư ngụ tà pháp Tiên Chúng, không nên vượt qua phạm lỗi Tăng thượng mạn. Trong Kinh dạy phạm các lỗi kia ắt sẽ bị đọa lạc. Vì phóng dật mà đọa lạc liền nên trì tụng Minh Vương chân ngôn, dũng tâm tư duy.
Nếu đã đọa lạc và lúc sắp muốn đọa liền được bốn vị hư không, tuy không hình sắc có Thiên nhãn thấy đường, thí như thành tựu, khởi tâm liền đến, cũng như tại định không động mà đến.
Thế cho nên trước thành tựu con đường du không kia, dùng phước lực tư nhiên y phục cung điện tùy ý, dùng hoa lâm viên quán các loại chim, Thiên Nữ du hý ca vũ kỹ nhạc, các món dục lạc bỗng nhiên quang minh, như ý tiếp thọ hay mãn các lời nguyện.
Vì dừng ở, lấy bảo thạch làm tòa, nước chảy dưới Kinh, cỏ mọc đầy đất, các món anh lạc và trang nghiêm thân đầy đủ tồn ngu lạc khối lạc.
Các kiết tường thọ có quả Cam Lồ, cho đến tùy chỗ đã vui thích, chỗ nhớ niệm đều hiện ở trước. Dẫu được như thế rồi thường cần phải hộ thân chẳng nên bỏ mất, nên trụ thanh tịnh viên lâm và các đỉnh núi, ở nơi biển châu ô, giang hà, bãi thác đã du hí rồi nên trụ ở những chỗ trên.
Ở các chỗ kia như trước các thắng cảnh, hoặc cùng như trước thành tiên chúng cùng trụ. Lại như trước đã nói đầy đủ mà làm pháp Tất Địa, các vật bất thành, như pháp cấm trụ hộ trì tạng khí, như trước thay đổi trước làm niệm tụng cho đến trở lại làm pháp thành tựu. Làm như thế xong, nếu không thành tựu, gia thêm tinh tấn.
Lại càng thêm niệm tụng làm pháp thành tựu. Như vậy trải qua đầy đủ bảy lần mà vẫn không thành, nên làm pháp này quyết định thành tựu.
Nghĩa là: Khất thực, tinh cần niệm tụng, phát tâm đại cung kính, tuần xem tám Thánh tích, lễ bái hành đạo hoặc là chuyển đọc Kinh Bát Nhã.
Phải tụng bảy lần hoặc một trăm lần hoặc đem những vật thù thắng phụng dâng bố thí các hàng Tăng già, hoặc ở bên dòng sông, biển cả, hoặc ở hải ô.
Nên làm một Tháp Suất đổ ba Tháp nhiều tầng bằng một khuỷ tay, số đủ một trăm cái, ở trước mỗi mỗi suất đổ ba như vậy, như pháp niệm tụng một ngàn lần. Tháp cuối cùng của một trăm Tháp nếu được phóng quang, phải biết pháp này quyết định thành tựu.
Lại nữa tất cả chân ngôn niệm tụng một cu chi một trăm ức biến quyết định thành tựu. Nếu lúc niệm tụng, trải qua mười hai năm, dù có trọng tội cũng đều thành tựu. Giả sử pháp không đầy đủ đều được thành tựu.
Lại niệm số biến lúc đã mãn, tức liền phải làm Tăng Ích Hộ Ma. Hoặc lại làm thành biện chư sự Mạn Đà La này, ở trong mà làm bốn món Hộ Ma.
Hoặc ở trên đỉnh núi, hoặc ở trước chỗ trụ ở Ngu tích hoặc bãi Hằng Hà, đất bình trị, làm Mạn Đà La độ một trăm lẻ tám khuỷ tay an trí một trăm lẻ tám bình ở bốn cửa, trước mỗi cửa kiến lập bảo đài các báu trang nghiêm.
Lấy những danh hoa, những nhánh đẹp làm tràng hoa quấn chung quanh trụ cửa và trên góc tràng, khắp chỗ lấy bơ đốt làm đèn, mãn một trăm lẻ tám bày bố Mạn Đà La và một trăm lẻ tám lò hương thiêu các danh hương cũng an trí cùng chỗ.
Một mặt nội viện khoảng độ bảy khủy tay, một mặt ngoại viện khoảng độ ba khủy tay, còn là ở trung ương chỗ đã khải thỉnh và cúng dường v.v… đều nên như trước định pháp Hộ Ma.
Kế riêng nói ở trong Bổn chân ngôn an trí yết lã xá bình, bốn mặt bình làm pháp Hộ Ma. Ở mặt phía đông nội viện an trí khắp Phật bộ Chư Tôn.
Mặt phía Nam trong an trí khắp Kim Cang bộ chư tôn. Ở mặt phía Tây an trí Rô Đạt Ra Thần và Đa Văn Thiên Vương cùng chư quyến thuộc.
Như trước đã nói sứ giả tôn đẳng, nếu nội viện không dung thọ, sẽ an trí trước ngoại viện, hộ phương thần cùng chư quyến thuộc đều an trí bốn phương vị.
Ba bộ chủ và Rô Đạt La Đa Văn Thiên Vương trước an trí chỗ cũ, kế lại đều an trí Minh Vương Phi Biện Chư Sự chân ngôn Chủ v.v… cùng chư sứ giả, thứ lớp mà an trí.
Ở ngồi trước cửa an trí Quân Trà Lợi Tôn và Vô Năng Thắng Tôn như thế y pháp làm Mạn Trà La đã thành. Dùng bổn Tâm mà khải thỉnh, thứ lớp cúng dường, liền đối bốn góc mà niệm tụng nhiên hậu bốn mặt bình chỗ an trí lò, đều y bộ Trung kia mà làm pháp Hộ Ma, gọi là Tăng Ích Chư Tôn Hộ Ma. Cúng dường thức ăn dùng Ô Na La hiến dâng, làm pháp này xong tất cả chư Tôn liền thành tăng ích.
Như thế niệm tụng làm Hộ Ma xong, thay đổi lấy bộ Mẫu chân ngôn dùng bơ mà Hộ Ma. Kế lấy Bổn Tôn chân ngôn, sữa, cháo, bơ hòa mà làm Hộ Ma. Thay đổi lấy bộ Mẫu chân ngôn, dầu mè hòa với ba vị ngọt mà làm Hộ Ma.
Lại lấy bộ Mẫu chân ngôn dùng bơ Hộ Ma. Làm pháp này xong, tất cả chư Tôn liền sung túc và thành Tăng ích, viên mãn đầy đủ, tất đều hoan hỷ và ban cho thành tựu.
Lấy sáp ong làm hình tượng, dùng chân ngôn mà niệm tụng đó. Trước tụng bộ Mẫu và Minh Vương chân ngôn, ở giữa an trí Bổn Tôn chân ngôn, dùng pháp A Tỳ Giá Rô Ca Hộ Ma.
Dùng dầu giới tử thoa lên hình tượng, trạng thái vừa nóng, nếu hàng phục kẻ khác khắp thân đều thống khổ, lấy roi tức giận mà đánh và dùng hoa ném.
Trước dùng hai chân ngôn lấy sản tâm mà cúng dường thí như trị phạt các loài quỷ mị. Trị phạt Bổn Tôn pháp cũng lại như thế.
Như pháp suy nghĩ, y giáo mà làm không được tự chuyên, thường thường Bổn Tôn liền đến hiện tiền, ban cho sự thành tựu và Bổn nguyện đã mãn thì dừng việc làm ở trước. Làm pháp Phiến Để Ca, hoặc lấy thuốc độc, máu của mình, dầu mè, muối, xích giới tử hiệp lại mà hồ, suốt đêm Hộ Ma.
Lúc bấy giờ Bổn Tôn sợ hãi xướng rằng: Chớ, chớ, dừng, dừng, ban cho thành tựu. Như thế làm pháp trải qua ba ngày xong, cũng lại không đến ban cho người thành tựu, lại gia thêm dũng mãnh, dùng tâm vô úy, liền cắt thịt mình Hộ Ma ba lần, Bổn Tôn liền đến xin người kia hoan hỷ, chỗ tâm cầu nguyện liền được thành tựu.
Nếu có khuyết lỗi, mỗi mỗi mà nói. Giả sử phạm tội ngũ vô gián, trải qua chín đêm cắt thịt Hộ Ma, quyết định mà đến ban cho người thành tựu.
Chân Ngôn này là pháp đấu tranh, lấy tâm vô úy như pháp hộ thân mới có thể làm, ắt không sẽ bị lỗi. Đã được thành tựu phải mau làm pháp Phiến Để Ca. Nếu nói tội lỗi trong quá khứ liền nên bổ khuyết. Ở trong các việc thành tựu, Mạn Trà La này là tối thắng.
Ở trong làm ba món, được ba món quả, đối trong nên làm tất cả chư sự và lấy Hộ Ma. Trị phạt Bổn Tôn như trị quỷ mị, mỗi thời cúng dường đều thay đổi vật mới, các vật Hộ Ma cũng lại như thế.
***