Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM BA

PHẨM QUÁN KHÔNG
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật: Bồ Tát ở bậc tam địa phải thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?

Đức Thế Tôn dạy: Bậc Bồ Tát tinh tấn học tập mà không có xuất nhập niệm. Tuy học nhiều nhưng việc tham vấn không bao giờ cho là đủ, không ham muốn học hỏi thể văn câu cú, từ ngữ hoa mỹ.

Truyền bá giáo pháp nhưng với mọi người luôn luôn khiêm hạ, quản lý chăm lo việc nước nhưng không bị niệm tưởng về việc nước buộc ràng, làm các nghiệp thiện mà không cống cao, giữ gìn niệm tâm phát khởi đầu tiên khiến cho không để dứt mất, thành tựu đức nguyện, chí như núi An Minh, quán sát chúng sanh, nói pháp hỷ lạc.

Bồ Tát từ lúc mới phát tâm đã vì gốc đạo, do vậy nên đạt được đạo quả mãi mãi vắng lặng, tâm niệm bố thí rộng rãi trải khắp nơi, phát nguyện lập chí giữ giới trọn vẹn, phát tâm tinh cần tu tập không lười biếng, không lấy gì làm hỷ lạc, chỉ lấy đạo là nhiệm vụ phải tu tập.

Với người không có chỗ nương tựa thì chỉ đường cho họ. Do phân biệt pháp đại trí nên từ khi mới phát tâm vĩnh viễn không chỗ trụ. Do dùng tâm đại bi nên không thể thấy.

Mong nhổ tận gốc phiền não, lập chí hạnh đại thừa nên khởi tâm thương xót người chưa được độ. Khi thấy người đã được độ thì phải vui mừng, giữ tâm bình đẳng đối với chúng sanh. Dù gặp khổ hay vui cũng không dao động, tương trợ tất cả dẫn họ vào cửa đạo.

Được các Đức Như Lai hiện thân phò trì, nhớ nghĩ thuận theo lời dạy của mười phương Chư Phật, phải độ tất cả nạn của năm đường, làm phát triển đạo, không làm tổn hại Tam Bảo, không trái nghịch thì thành tựu đạo quả. Thuận theo cấm giới làm bậc mô phạm cho chúng sanh, tuyên dương trí tuệ Pháp Bảo vô tận.

Giống như hư không không có chỗ tận cùng, nhất thiết trí kia cũng không tận cùng. Tâm thức của Như Lai cũng như vậy, không có sanh diệt, sự ràng buộc của sanh và diệt đều đã đoạn trừ, định tâm tam muội trí tuệ giải thoát, vượt qua tri kiến về thân vô hữu, gần xa đều không thể thấy.

Tối Thắng nên biết, tất cả pháp yếu thậm thâm của Chư Phật cũng không thể tận, không có đầu mối, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai hợp tan không gì có thể thấy có sự tập hợp, có sự tác thành rồi lại tan mất, biến đổi khác hẳn, đều chẳng phải do bốn đại tạo ra.

Đất, nước, gió, lửa cũng không có đối tượng và cũng không thể thấy. Dùng trí tuệ phân biệt rõ tâm hành của chúng sanh, chẳng đoạn bốn nguyện bất khả tư nghị, tất cả đều không có chỗ sanh cũng không phải lờ mờ không rõ. Tất cả các pháp tìm hiểu đều không thể biết. Do đó mà nói không có chỗ sanh, lại cũng chẳng có pháp nào có thể có sanh.

Sanh đã vô sanh thì pháp nào gọi là sanh. Do vậy, này Tối Thắng, phát bồ đề tâm không có chỗ tận cùng, không khởi tâm tưởng hình tướng các pháp, cũng không dối trá vọng tưởng các pháp.

Tâm Bồ Tát chánh trực, là đặc thù trong các tâm. Pháp tu tư duy tâm chính là pháp tự quán thân mình, quán thân người khác đều là không tịch, không sanh niệm tưởng. Quán thân vô nhiễm nên bất khả đắc, cũng không trao nhận, phân biệt là một.

Đi, đứng luôn quán sát các loại hình thể đã thọ của ba cõi đều do si nên mới nhận lãnh các khổ não. Liễu tri pháp bất nhị nên bất khả đắc, tâm niệm khổ não, thực hành pháp thấy bên trong, bên ngoài đều là không tịch, không có sanh diệt.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc tinh tấn học đạo Bồ Tát quán niệm hơi thở ra vào dài ngắn, nhanh chậm. Các lỗ chân lông trên thân khi hơi thở thổi qua mà không hiểu rõ như thế nào. Hơi thở ra ấm mà hít vào lạnh thì biết sự tịch tĩnh đó đều là không chân thật. Bồ Tát quán thân, phân biệt thức cũng không có xứ sở vì tâm thanh tịnh, chánh định không tà niệm.

Tâm ấy nhu nhuyến, không gợn niệm trần, trọn tin pháp yếu giải thoát chưa từng thay đổi, chí luôn kiên cố không động chuyển thì không thể do yêu ghét mà sanh tâm nhiễu hại.

Vì sao?

Theo hạnh đó thì không thể có tâm thành tựu. Nếu đã thành tựu thì không phỉ báng, lấy gì để nói là không nguồn gốc, không tội lỗi. Tâm cấu đã hết, nguyện cho pháp luân thường chuyển ở thế gian, khiến mọi người đều được trí tuệ vi diệu, soi sáng chốn tối tăm như mặt trời hiện mây tan. Lập đạo vốn phải tự quán vô ngã, không có chỗ sanh.

Các pháp trong ngoài đều như vậy, cũng không thấy pháp khởi diệt của các đường sanh tử, cho đến La Hán, Duyên Giác và Phật vị đều không thấy nghe. Người có hữu tưởng kiến là phi kiến nhận thức sai lầm, không có đối tượng sở kiến thì tất cả cái thấy đều thanh tịnh, không dừng trụ tâm ở niệm tưởng tịnh thì chính là Phi Tưởng. Đó là không kiến, là vô sở kiến.

Lại nữa, này Tối Thắng, tâm không ở trong cũng không ở ngoài, không ở trong đạo pháp cũng không trụ ở thế gian, không trụ ở hữu cũng không trụ ở vô, không thấy chỗ dao động sanh diệt. Tâm không bờ vách, khoảng khoát không đáy, cũng không có mảy may âm hưởng.

Như vậy, này Tối Thắng, cần phải quán niệm về pháp quán niệm mà không có đối tượng quán như thế, cần phải thấy về cái thấy mà không có đối tượng của sự thấy như thế thì tu tập hạnh Bồ Tát là không, là diệt, là vô sở hữu. Bậc Bồ Tát trụ tam địa dùng các pháp định khiến tâm ý chuyên cần, kiểm soát niệm thành thanh tịnh.

Tu tập kiểm soát tâm như vậy là hợp với Niết Bàn, tương ưng với vô sở sanh. Pháp đó chẳng phải là pháp vô, cũng chẳng phải là pháp chẳng phải vô. Do danh tự mà tạm gọi là pháp tánh.

Giác ngộ pháp tánh thì không thì không còn theo nhân duyên quá khứ, ý thông tỏ rõ ràng, tu tập dứt trừ pháp bi thương của thế gian. Pháp ác chưa sanh thì tinh tấn điều phục, chế ngự khiến chúng không khởi lên. Pháp ác đã sanh thì điều phục ý khiến đoạn dứt. Pháp thiện chưa sanh thì tinh tấn làm cho phát sanh. Pháp thiện đã sanh thì làm cho tăng trưởng, không để mất.

Bậc Bồ Tát tam trụ tu tập định thần túc được sự hỷ lạc từ quá trình tu tập định chỉ. Thần túc ấy luôn giữ gìn cho thân và tâm ý. Bồ Tát dùng tinh tấn định trừ bỏ các việc ác đã làm. Thần túc lại cũng thường giữ gìn thân tâm. Bồ Tát dùng định ý trừ diệt các nghiệp đã làm, thâu nhiếp thần túc giữ gìn thân tâm.

Bồ Tát dùng trí tuệ trừ bỏ các nghiệp đã làm, thâu nhiếp thần túc đó cũng để giữ gìn thân tâm. Bồ Tát dần dần tu tập tín căn, tinh tấn căn, ý căn, niệm căn, định căn, tuệ căn liền được thể nhập pháp yếu. Phật Pháp không tận cùng, không người, không ta, không có nhân duyên cũng không triền phược.

Người yêu thích sự hiện hữu thường chấp cho rằng phải đoạn trừ nỗi khổ sanh tử. Tất cả đều không dấu tích mà nhiều người lại nương tựa, đặt ra tên gọi ở vô số đời. Hành lại tích tập, ưu não theo đó phát sinh như bóng theo hình không khi nào dứt.

Như vết bánh xe phụ thuộc theo bánh xe, chẳng biết khi nào cong, khi nào thẳng, tu tập định cũng không nương tựa, chánh quán về pháp vô chấp. Tham đã tận, tưởng đã diệt, kết đã mở thì được thanh tịnh. Với hành không cảm, ý không ưu loạn, đoạn trừ già bệnh không còn qua lại. Mắt tuệ sáng tỏ chiếu khắp thế nhân, phá bỏ mười hai nhân duyên, không điểm nào trí tuệ còn mê mờ.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Bồ Tát lại phải tu tập công đức thần lực. Người có thần lực là bậc chẳng thể nào sức oai thần của thiên ma, ngoại đạo phá hoại, xâm hại. Tín lực, tinh tấn lực, ý lực, định lực và tuệ lực là mẹ của bậc tu hành Bồ Tát hạnh.

Sau đó phải dần dần tinh cần, tu tập thất giác ý hoa. Dùng Giác ý hoa tu tập mười lăm tâm, đoạn trừ tâm bỏn sẻn, xan lận che lấp dấu tích Bồ Tát đạo, thành tựu trí tuệ thâm diệu không thối chuyển.

Pháp giác ý hoa vô vi, vô tác trừ bỏ hạnh ác, bất thiện cùng tinh tấn giác hoa hợp thành giới ngăn chặn giải đãi. Khi có phóng dật thì ngăn chặn để nó không khởi lên. Hoan duyệt giác hoa ứng với bậc tam thiền, nhiếp các loạn tưởng, tịch tĩnh vô vi.

Do tín giác hoa nên không bị tham trước, quán rõ các pháp không sở tập. Do tín giác hoa nên tâm chí vị ấy kiên cố, lời nói nhã nhặn, rõ ràng thông suốt, không có hối hận, e dè.

Bồ Tát cũng phải tư duy về vô trước giác hoa, dứt trừ một trăm lẻ tám tâm nhiễm trước lầm lỗi. Bồ Tát lại phải tu tập Bát Hiền thánh đạo là đẳng niệm, đẳng định, đẳng ngữ, đẳng hành, đẳng nghiệp tập, đẳng ý, đẳng định.

Vượt qua tám nạn và sáu suy. Bồ Tát lại phân biệt pháp tam tam muội. Tu tập đầy đủ các hạnh đó thì được gọi là Tam ma địa thanh tịnh.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Bồ Tát Đại Sĩ tu tập tuệ môn, tư duy về không, chẳng có gì không thể thấy được, không có tưởng về hình tướng thì có tướng cũng như không tướng. Khi nói pháp cho người thì luôn dùng lời chân chánh, trung thực, chí thành.

Tuyệt đối không nói lời sai lạc khiến người sanh nghi ngờ, thất vọng. Bồ Tát không mong cầu danh xưng nên được mọi người khen ngợi, cùng nhau đến tôn phụng cúng dường. Nếu Bồ Tát có làm việc gì thì đều không vì mình, trước tiên mong cầu người khác bình an, sau đó mới lo cho mình.

Do vậy nên tự thân đạt đến chỗ an ổn. Công đức tu thí đã làm không bao giờ nghĩ nhàm chán. Khi bố thí cho người khốn khổ, không bao giờ cho là đủ, vì để cải hóa tất cả chúng sanh vậy.

Bồ Tát dùng tâm đại từ trừ sạch già chết, làm cho kẻ biếng lười khởi tâm tinh tấn.

Bồ Tát muốn nuôi dưỡng các loại chúng sanh thì luôn phải tự nghĩ: Ta nhờ chúng sanh nên mới đạt được đạo quả, các công đức nghiệp cũng được đầy đủ. Ta phải dốc hết sức lực vì chúng sanh mà không mong cầu quả báo. Những bậc như vậy do tâm thanh tịnh đã thấm nhuần mưa pháp nên không mong cầu gì ở người đời.

Nếu có mong cầu thì cũng không vì lợi dưỡng. Dùng tuệ lực đó, Bồ Tát đạt được tất cả pháp, nguyện khiến cho chúng sanh, mỗi người nơi chỗ mình ở đều được an ổn, làm cho ba cõi thượng, trung, hạ đều không còn oán hận.

Việc làm của các vị ấy đều để làm cho chúng sanh an ổn, thấu tỏ chân lý. Cho nên Bồ Tát là bậc không ai có thể chế ngự, là bậc không ai có thể làm ngưng đoạn.

Như vậy, này Tối Thắng, thệ nguyện rộng lớn thuở xưa của Bồ Tát thật khó lường. Trí tuệ vô biên của các vị ấy không cùng tận.

Như vàng cõi trời không có tạp chất, cũng vậy, dụng hạnh của các Bồ Tát không có chỗ cấu uế, dứt trừ phiền não trần lao, vĩnh viễn không tham dục, không thể nào có ác tâm trỗi dậy làm loạn.

Lại nữa, tâm ý Bồ Tát dõng mãnh không bị niệm ác bao phủ khiến ôm ấp niệm tà, cũng không phát sinh tâm sân hại, ngu si và tâm tham chấp sở hữu, vượt qua năm dục cống cao tự đại, những gì không nên làm đều đã tận trừ.

Bậc Bồ Tát tam trụ thường đạt được tâm ấy, quán chiếu nội pháp nhưng không thấy có đối tượng để thấy, cũng không có hình tướng. Nếu có tướng thì tức là hủy hoại pháp tánh.

Bồ Tát buông bỏ gánh nặng các cấu trược, phải kiên trì giữ tâm đó không được giải đãi, suy tầm tâm ấy, tất cả đều không nương trụ nơi nào mà cũng không thấy có vô số niệm tưởng.

Với kẻ có tâm rối loạn thì khiến tâm họ định tĩnh. Với người không trí tuệ thì bồi dưỡng để họ có trí tuệ. Tóm lại, với chúng hữu tình phải thọ nhận thân này hoặc có công đức, hoặc không có công đức, Bồ Tát đều muốn độ họ được giải thoát đến với đạo Đại Thừa, suy tư theo Đại Thừa cũng không chấp trước suy tư đó.

Bồ Tát giáo huấn chúng sanh thực hành pháp đó khiến tất cả họ có chí kiên cố, rồi trụ tam địa thanh tịnh, thành tựu đạo quả.

Bồ Tát ở chỗ nguy nan đều thành tựu công đức vô cực Ba la mật. Dù đạt được trí tuệ biết được báo ứng vô sở hữu, tâm Bồ Tát vẫn như vậy, vĩnh viễn không thể thấy. Cho nên những bậc áy có thể dùng trí tuệ quán biết không có quá khứ, vị lai, hiện tại.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát thường học tập tâm đại từ, nếu có khổ nạn tự mình gánh chịu để mong cứu độ, bảo toàn thân mạng cho chúng sanh, thà táng thân mất mạng cũng nguyện nhận lãnh khổ não, cấp thiết độ người không quên lời trọng nguyện.

Bồ Tát thực hành tâm từ bình đẳng như thế. Nếu có lợi ích không vì thế mà vui mừng, bị chửi mắng không có tâm sầu não. Đó chính là Bồ Tát tùy thời mà thực hành tâm từ. Người tu tập tâm từ luôn vì thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý.

Trọn đời không truyền bá điều ác cũng không suy nghĩ tà quấy. Dù một mình ở giữa cõi trần lai ngu si cũng không sợ hãi, không tự đại. Không quên bỏ pháp đã học. Trí tuệ vi diệu thông đạt tất cả pháp của Chư Phật. Theo nguyện cầu của người, không trái nghịch với tâm của họ.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Ngài Tối Thắng: Xưa kia, ta đến các nơi tham học, trụ tam địa thanh tịnh các cấu uế, công đức viên mãn. Chúng cùng theo học đông không kể xiết. Trong số đó, những người theo sau ta tâm thối chuyển không thể nói cho hết. Ta từ nhất trụ địa đến tam trụ địa phát khởi tâm hoằng thệ không thay đổi.

Ở trong pháp đó, công đức đã tạo cũng không thể lường. Ta đã xả bỏ tất cả châu báu quý hiếm, Quốc Gia, tài sản, vợ con không thể kể xiết, chỉ để nguyện bố thí cho những người cần chúng, như bố thí chín ngàn chín trăm chín mươi chín cái đầu.

Cuối cùng ta gặp một con cọp gầy ốm đang kiệt lực. Trong cơn đói khát nguy cấp, nó muốn bắt con vật khác để ăn nhưng không thể nào làm được nên muốn ăn thịt con mình để bảo toàn mạng sống. Nó gượng sức giương vuốt toan vồ đứa con. Ta cùng Từ Thị và Nhu Thuận là bạn.

Ta nhìn hai vị ấy, bảo: Nay đã đúng lúc, ai có tâm kiên cố dũng mãnh tự dùng thân bố thí cho cọp ăn?

Cả hai, mỗi người tự quay lại nhìn nhau, miệng tuy không nói mà tâm đã thoái chuyển. Ta quán sát biết họ có tâm lui thoái nên ở trên đỉnh núi lao mình xuống hang sâu. Trời Thủ Đà Hội hiện thân xuống nâng đỡ, hóa làm chiếc giường Cam Lộ để thân Ta nằm.

Con cọp đói cũng được no đủ, mẹ con đều bình an. Ta cũng không bị thương tổn. Tính luôn thân đó là đủ một vạn cái đầu. Do vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát tinh tấn tu học thành tựu Tam Ma Địa phải không có tâm thoái chuyển, không kiên cố. Giả sử thân ta rơi vào miệng cọp, cọp cũng không ăn, cũng không đến gần.

Vì sao?

Bởi vì ta đã lập công đức sâu dày nên có được thần lực tự tại với tất cả pháp, tu tập sám hối chưa từng có tâm che giấu, dùng vô lượng việc bố thí để khuyến trợ công đức. Bồ Tát tu học, truyền giảng đạo nghĩa, thuận theo pháp tu tập khuyên chúng sanh học đạo theo pháp của bậc Đại Sĩ.

Tâm của Bồ Tát kiên cố, không rời hoằng thệ, công đức đạt đến vô cực, dùng đó để tự trang nghiêm.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Bậc tấn học Bồ Tát tu tập tam địa luôn phải chuyên tâm không để thay đổi, không lấy sở kiến làm động tâm chúng sanh. Với các trần lao phiền não luôn biết tránh xa. Với bản thân thì biết đủ, không cầu lợi dưỡng, tâm vướng mắc chấp trước.

Không cầu địa vị cao sang quyền quý giàu có, làm cho tất cả mọi người tu tập pháp chân thật, mở bày trí tuệ tối thượng khiến cho mọi chúng sanh đều đạt được cái thấy căn bản: người và ta không phải một nhưng vốn không khác biệt.

Bồ Tát tùy theo nhân duyên mà hiển bày ý đó, không dùng pháp sanh, pháp chẳng phải không có sanh, pháp vô sanh, pháp bất sanh để thanh tịnh địa của mình cho nên không có hoặc, rốt ráo không có hoặc.

Hoặc phát sinh trần lao nên gọi là hoặc. Với hoặc không thấy hoặc, không có hoặc, chẳng có hoặc, biết rõ ràng sâu sắc đến vi tế hoặc thì chính là ứng hợp với chân không. Như vậy, này Tối Thắng, con đường tu tập của Bồ Tát là phân biệt lý không vô đưa đến nhập pháp, độ cho tất cả chúng sanh loại khổ đau đến an lạc.

Này Tối Thắng, đó gọi là bậc tấn học Bồ Tát trụ tam địa thanh tịnh hạnh của mình.

***