Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM BẢY

PHẨM QUẢNG THOI
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng lại bạch Phật: Bậc A Tỳ Bà Đế Bồ Tát ở Thất Trụ Địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?

Đức Phật bảo Tối Thắng: Thường thì bậc Bồ Tát đang ở địa thứ bảy, địa vị cuối cùng nhận quả do công sức khổ khó tu tập theo nguyện của mình, phải tránh xa, trừ bỏ sự chấp trước, không thấy có ngã, tuy độ chúng sanh mà không thấy có độ, cũng không thấy ngã, nhân, thọ mạng.

Đoạn diệt tâm chấp thường mười tám pháp bổn tánh, duy trì các nhập, xa rời các tưởng nhập điên đảo suy hao, cũng không nguyện cầu mong sanh vào ba cõi, luôn muốn gần gũi nương tựa Phật, Pháp, Tăng, Giới.

Niệm Thiên, Thí, Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Cũng không thấy người nhập đạo. Tuy biết có chứng đắc không, vô tướng nhưng không trụ nơi đó, không đi vào cảnh đó. Tuệ vượt quá vô nguyện.

Thân, khẩu, ý đều tịnh. Với niệm bi thương xót tất cả loài chúng sanh cũng không tự niệm. Thương xót chúng sanh nên có cái nhìn bình đẳng đối với các pháp. Pháp đó là không, là vô chủ cũng không có gì có thể nhập.

Bồ Tát muốn làm bậc Điều Ngự thì chớ có tâm cống cao. Vô sở sanh nhẫn là quả báo ứng. Mỗi lời truyền giảng đều không dựa vào danh sắc, vĩnh viễn xa lìa tà nghiệp mà không chấp trước vào pháp nào, cầu tưởng tri diệt mà không hồi tưởng.

Tự điều phục tâm ý, tuệ không bị chướng ngại, vĩnh viễn trừ bỏ tam đồ, không nhiễm vào dục. Lời của Bồ Tát nói lập tức có tác dụng. Bồ Tát ra vào, lui tới không mất oai nghi. Tất cả tâm ý vọng tưởng mong cầu vĩnh viễn không sanh.

Với các pháp chấp thọ, Bồ Tát theo lý tư duy rõ ràng. Các pháp tụ tán giả hợp, biết rõ không có sai lầm. Bồ Tát cũng không dùng tâm đó có ý thắng thua, luôn phải tư duy pháp tịch nhiên. Pháp tịch nhiên đó chính là pháp bất thối chuyển. Chư Phật đều hoan hỷ mà thọ ký danh hiệu. Chính lúc đó Bồ Tát được gọi là bậc vô sở sanh tuệ.

Vì sao như thế?

Với tất cả pháp, Bồ Tát cũng không có tâm. Pháp vô tâm đó là vô sở sanh. Pháp vô sở sanh chính là kiên cố bất thoái chuyển địa. Lại nữa, tâm của bậc Bồ Tát mới phát tâm có chí ý kiên cố.

Bồ Tát dạo qua vô lượng nạn trong sanh tử, bố thí tất cả vật sở hữu mà không có mong cầu, luôn có tâm bình đẳng cứu giúp chúng sanh: Ta phải độ cho tất cả chúng sanh mờ tối, dùng pháp giải thoát của Phật mà diệt độ cho họ. Tuy độ chúng sanh mà cũng như không có người được độ.

Người đạt giải thoát hiểu rõ tất cả pháp đó đều là vô sở sanh, phân biệt thông suốt tất cả pháp, luôn gia công tinh tấn không bị ngưng trệ. Trí tuệ đó phổ biến khắp nơi, đủ nhất thiết trí thông suốt các pháp môn vi diệu.

Các gánh nặng do ái không có tăng giảm, dùng tâm vô tham đoạn trừ các vọng kiến. Bậc A Duy Việt Trí tuy ở trong ba cõi mà không khởi các tưởng. Nếu khởi tưởng chấp trước thì liền có biên tế.

Người có tâm biên tế thì chấp ngô ngã, dựa vào sự bố thí của mình mong muốn phước đức đem đến sự sung túc giàu sang.

Người bố thí như thế thì có pháp chướng ngại: Người thí, người nhận thí và pháp bố thí, chỉ xoay vần trong lưới sanh tử thế tục, trọn không thể đạt được đạo giải thoát. Tối Thắng nên biết, khi Bồ Tát tuệ thí thì không chấp ngô ngã, không thấy người nhận thí mà sanh tâm chấp thủ.

Giả sử có bố thí thì cũng chưa từng khởi tưởng mong cầu có báo ứng. Sự bố thí của Bồ Tát khuyến trợ tất cả, là vì cầu đạo vô thượng chánh chân, ba đời bình đẳng không có quá khứ, hiện tại, vị lai.

Hiểu rõ pháp thân không trụ trong sanh tử. Không dừng khi diệt độ, giáo hóa tất cả đều vô sở trụ, tâm tánh nhu hòa, thương xót chúng sanh nguy khốn, tâm bình đẳng rộng cứu độ tất cả chúng sanh.

Thân gần thiện tri thức học hỏi điều chưa biết, cầu học Kinh Điển sách vở vì mong giải tỏa các mối nghi, luôn nghĩ đến việc xả bỏ gia đình, không ưa thích tài sản nhà cửa, hiểu rõ tướng mong đạt đến vô tướng.

Quán các pháp bình đẳng, trí tuệ thông tỏ các điều chánh, diễn nói phẩm pháp vô sở tùng sanh, trừ sạch các niệm, lìa xa loạn tưởng, xả bỏ tà kiến, diệt trần lao ô uế, tịch tĩnh suy tầm chân lý, tâm ý điều hòa, chí ý không hai, không theo pháp nhiễm ô.

Nếu Bồ Tát thể nhập địa này, trụ ở xứ đó thì mới đáng gọi là bất thoái chuyển, nhất tâm nhập chúng, thường dùng thần thông mà khai hóa chúng sanh, hiểu rõ các cõi Phật là không, không có sở hữu, tất cả đạt đến cứu cánh, quán chiếu thấy rõ đầy đủ căn nguyên của chúng sanh, tùy theo chỗ họ ưa thích mà thị hiện.

Tối Thắng nên biết, bậc thất trụ Bồ Tát tinh tấn dõng mãnh tu tập như ảo tam muội luôn luôn hiện tiền, tùy theo tâm ý quy hướng của chúng sanh mà độ thoát cho họ, hoặc đi vào năm đường để cứu hộ mà không bỏ bổn nguyện đã phát khi xưa nên thành tựu thức phân biệt các loại, các ngôn từ nói ra đều là biện tài.

Bồ Tát đều biết rõ mạng căn lúc trước chỗ sanh về đâu, đến khi ngồi dưới cội Phật thọ sắp thành đạo, trang nghiêm Đạo Tràng huân tập đầy đủ công đức, thông tỏ Phật pháp, không pháp nào không biết.

Bồ Tát luôn phải tư duy thoái chuyển, bất thoái chuyển, đều quán thông suốt pháp cực diệu, biết rõ biên tế mà không trụ nơi nào, cũng không có kết thúc hay sanh khởi.

Bồ Tát tư duy bất thoái trí nhẫn, hiểu rõ các pháp tụ tán vô cùng mãnh liệt, vĩnh viễn diệt độ mà trí nhẫn không lui thoái. Tuy ở nơi phóng dật mà hiểu rõ các pháp, không trì trệ trí nhẫn bất thoái.

Bồ Tát lại ở trong các pháp giải tri năm ấm khởi hay không khởi. Bậc bất thoái nhẫn thông tỏ tất cả pháp không có âm thanh, tức là không có tiếng vang của âm thanh. Âm thanh đó cũng không có phát ra hay thâu vào.

Bậc bất thoái trí ở trong các pháp đầy đủ các điều tốt đẹp, sáu độ vô cực biến khắp hư không, không khuyết giảm. Bậc bất thoái nhẫn tuy ở trong các pháp mà không đến, không đi. Đi, đứng, nằm, ngồi không có gì hợp hay không hợp.

Với bậc bất thoái trí, pháp tánh luôn thường trụ, trụ nơi vô trụ, cũng không trụ nơi hang cốc mà chấp vào nơi trụ. Bậc bất thoái nhẫn đối với các pháp đều không phân biệt tôn ti cao thấp. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp đều xả ly, đoạn diệt tâm chấp hữu thường.

Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả các khổ sanh tâm sợ hãi, phải biết vốn là không, cũng biết là không có chỗ trụ. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp trừ bỏ phiền não che ngăn cùng khắp như hư không nên xả trừ sáu sự. Bậc bất thoái nhẫn lại đối với các pháp làm tiêu hóa trần cấu, không nhớ nghĩ, không quên mất.

Bậc bất thoái trí đối với tất cả các pháp không ứng hợp hay chẳng ứng hợp, cũng không có hợp tan, tuy dạo trong các pháp mà trừ sạch trần lao khiến chúng không còn dấu tích. Bậc bất thoái nhẫn từ trí tuệ của mình thực hành pháp, không bị tập lôi kéo. Với tất cả pháp đều vô tri cũng không phải vô tri, không tư lự, không thấy.

Bậc bất thoái trí đối với các pháp không động, không thể dao động, đạm bạc vắng lặng cũng không tưởng niệm. Bậc bất thoái nhẫn đối với các pháp diệt sạch, không có tâm thoái chuyển. Tất cả đều diệt tận không thể tìm thấy được.

Bậc bất thoái trí đối với ngọn nguồn của tất cả pháp không trụ, tự tánh như hư không. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều an lập trong vùng u ẩn, tịch mịch, chỗ đến vô ngại cũng không có hoạn nạn. Bậc bất thoái trí biết pháp giới tánh là thường trụ, tùy thời mà hưng khởi các pháp.

Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều là không tịch, không niệm, không xả, chẳng có niệm chấp trước hay không chấp trước. Bậc bất thoái trí chuyển vận các pháp đến Ba La Mật, không thấy có bỉ thử, có độ hay không độ.

Bậc bất thoái nhẫn không niệm các pháp sanh, già, bệnh, chết, các nhập, ưu não. Bậc bất thoái trí nhiếp thủ các pháp mà không có gì có thể đắc, chí luôn trụ ở pháp sáu độ thâm diệu. Bậc bất thoái nhẫn suy tư các pháp để tránh xa cấu uế, trọn không lầm lỗi. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp phụng tu bình đẳng cũng không có chuyển.

Bậc bất thoái nhẫn không thấy chủng tánh sở tạo các pháp, liễu tri chúng là một. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp cũng không mong cầu, không có tâm sầu lo. Bậc bất thoái nhẫn cũng do các pháp cùng nhau phát khởi, trong tâm không có niệm dừng nghỉ mà sanh lười biếng trụ nơi biên tế.

Bậc bất thoái trí quán rõ bổn vô, không tiến, không lùi cũng không suy giảm. Bậc bất thoái nhẫn đoạn trừ các pháp đều quy về âm hưởng. Tất cả đều như hư không, không thấy tướng mạo, không xả pháp tánh bổn vô tự nhiên.

Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp không có hạn lượng, không đến, không đi, không buộc, không mở cũng không có sanh. Bậc bất thoái nhẫn trừ các uế ác, tu tập pháp cực tịnh. Bậc bất thoái trí tuyên xướng các pháp, điều hòa an định các trí, cởi bỏ kiết sử trói buộc, hưng khởi đạo tâm.

Bậc bất thoái nhẫn đều vượt qua các pháp khinh mạn, cho đến các duyên báo ứng ân ái. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp vì ly danh cú nên tên Bổn vô cũng không được, không mất.

Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều không bỏ, không giữ, không trì trị trong bất sanh. Bậc bất thoái trí trừ bỏ tâm tham trước, pháp cứu cánh cũng không tăng giảm. Bậc bất thoái trí vì pháp căn bổn xuất sanh thù thắng nên một mình đi trong ba cõi.

Bậc bất thoái nhẫn tư duy gốc khổ, truy tìm phân biệt để biết khổ từ đâu sanh. Bậc bất thoái trí phân biệt căn môn, nhân duyên của ý thức. Bậc bất thoái nhẫn với thệ nguyện trọng yếu của Bồ Tát trọn không trái nghịch. Bậc bất thoái trí không dùng thân xúc thọ thai mà luôn phải hóa sanh.

Bậc bất thoái nhẫn tư duy các loại ấm nhập, tánh hưng suy, trì nhập của các ấm. Bậc bất thoái trí phân biệt nội thân, khởi bất tịnh quán, từ đầu đến chân không khởi tham trước.

Này Tối Thắng, Bồ Tát luôn phải tư duy, phân biệt, liễu tri tâm của bậc mới phát khởi học đạo Bồ Tát vì không thoái nhẫn nên quán thấy rõ bảy pháp bổn, cũng không có tên sanh diệt, trước đoạn. Bậc thất trụ Bồ Tát lại phải tư duy tám pháp bổn của Hiền Thánh đều không thấy sanh diệt, trước đoạn.

Này Tối Thắng, giả sử Bồ Tát theo chỗ thọ sanh, ở đó chấp trước sanh vào Sắc Giới, ngũ địa, thất, lục, tứ, tam, nhị, nhất địa. Ở địa vị cuối cùng thật có bảy pháp bổn cũng phải tư duy như thế.

Trong cõi vô hình lại có thập nhất vị, đều liễu tri chúng là A Duy Việt Trí không tịch. Vì có thể tu tập thành tựu khổ nhẫn, khổ trí, tập, tận, đạo nhẫn và Hiền Thánh trí, cũng phải phân biệt bát huyền thông nhẫn, trừ năm mươi hai lậu của vô minh.

Bậc thất trụ Bồ Tát luôn nhớ nghĩ, y cứ nơi pháp tu tập sơ thiền, sáu Hiền Thánh trí, tu tập Nhị Thiền và Tam Thiền duyên với hỷ căn. Nếu trụ trong thiền thì không thủ chứng, phải tu bảy trí vô giác hữu quán, tâm tu tập nhiếp trì không, vô tướng, vô nguyện.

Nếu Bồ Tát nhân Nhị Thiền đó tư duy bát tuệ thì không giác, không quán hỷ. Với không, vô tướng, vô nguyện cũng không thủ chứng. Lại nữa, nếu Bồ Tát niệm tam thiền, phân biệt thập tuệ thì không niệm giác, quán. Tự thọ niệm hỷ lạc nơi không, vô tướng, vô nguyện.

Khi ấy Bồ Tát trú trong tứ thiền phải phân biệt mười sáu thánh trí cũng không có giác, quán. Thực hành từ, bi, hỷ, xả. Giữ gìn tâm ý không dứt đoạn thì có thể thể nhập bảo tạng của Bồ Tát, tu tập giải biệt trí nhẫn, không có bệnh tật đau đớn, không bị năm mươi hai lậu trói buộc, tuần tự phân biệt các pháp, chỗ đến của các địa và đạt được Thánh Tuệ bất thoái chuyển.

Nếu Bồ Tát tu tập mười sáu pháp thù thắng trọn không có tâm niệm hoài nghi, tà kiến thì có thể tiêu trừ tất cả các kết. Tâm Bồ Tát kiên cường, không khiếp nhược, ý niệm kiên cố cũng không hỗn loạn, vọng động, một mình đi trong ba cõi không sợ các nạn, chí như kim cương trọn không thoái chuyển.

Tâm luôn nhớ tàm quý, ý có thể chiếu soi không có gì không thông đạt. Trí tuệ như huyền minh, chẳng có gì không sáng tỏ, ngôn từ biện tài trọn không ngưng trệ, đạt pháp tổng trì chưa từng quên mất, hành hoạt nhanh lẹ không cần suy tư, ở chỗ nào cũng làm Phật Sự.

Tâm hành bình đẳng, ý không tăng giảm, lời nói nhu nhuyến không làm thương tổn người khác, tánh không hung bạo, theo lý suy tư rõ ràng, biết chí hướng của người khác liền vì họ nói pháp phân biệt năm ấm, phân tích các nhập, quán tỏ các pháp, không pháp nào không thông tỏ.

Thấy khắp nhân duyên báo ứng của ba Đời, biết tâm niệm người mà vì họ nói pháp chỗ đúng, chỗ sai báo ứng thiện ác, tâm tuệ sâu xa không giới hạn, biết rõ pháp phương tiện khéo léo tùy thời thích hợp để hóa độ. Phải tiến hay dừng.

Xuất hay nhập, đi đứng đều thức tri phân biệt không bỏ sót, oai nghi lễ tiết không sai luật, ở bất cứ nơi nào cũng khởi tâm đạo vô thượng chánh chân.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc Bồ Tát Đại Sĩ ở chỗ nào cũng nói pháp độ người khiến họ thành tựu đạo quả, trừ khử các nạn khiến họ được mãi mãi an ổn, trọn không sanh vào tám nơi không nhàn, đến Quốc Độ nào mà được tự tại, nghe lời giảng của Bồ Tát liền được độ thoát.

Chúng sanh tôn kính vâng theo lời dạy ấy, suy tư nghiên cứu liền được pháp bất thoái chuyển, quán tỏ thông tuệ biết pháp vô sở tùng sanh liền thành tựu đạo vô thượng chánh chân.

Bồ Tát luôn phải dùng phương tiện thiện xảo nhưng cũng không tự nghĩ: Ta có thể hàng phục sắc tưởng, tự thân ta mong cầu ngày nay đã được.

Bồ Tát không sanh tâm nhỏ hẹp mà lệ thuộc chấp chặt vào quả chứng đắc. Đó gọi là pháp bất thoái chuyển của Bồ Tát.

Bồ Tát phân biệt pháp mười hai nhân duyên đều do vô minh mà dẫn đến sanh tử, suy tầm chỗ sanh mà không thể thấy, cũng không thể quán, cũng chẳng phải hữu tướng hay vô tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải không có vô tướng.

Thấu đạt gốc nhân duyên đó thì không thấy sở hành là chánh hay không chánh và phân biệt có thượng, trung, hạ. Cũng không thấy tội phước báo ứng, tạo hạnh bất thiện, hiểu rõ các pháp đều vô sở sanh.

Tu các pháp bổn không thấy hợp tan, đó mới gọi là chỗ nhân duyên khởi. Nếu đã không duyên thì không lo họa hoạn, lời nói cũng không họa hoạn. Vô minh, hành diệt, không có già chết, lo lắng, sầu muộn, khổ não.

Thức tri thông đạt, phân biệt mười hai pháp, tất cả danh hiệu các pháp hữu nhân, nhân duyên hợp tan. Chẳng có ta nên vô ngã, chẳng có người nên vô bỉ. Cũng không thấy có ngã, nhân, thọ mạng, sanh, già, vô thường.

Không thấy pháp sở nhập cũng chẳng có pháp nhập, biết rõ thức nhập đều không có gì nhập. Nhập thư thế chính là biết rõ tất cả pháp thoái chuyển hay không thoái chuyển.

Này Tối Thắng, bậc Bồ Tát bất thoái nếu muốn đầy đủ các pháp phải thấu đạt vô thường, khổ, không, phi thân vô ngã. Tuy biết rõ hư tịch nhưng vì chúng sanh mà không thủ chứng.

Bồ Tát tu tập thanh tịnh không chấp trước hữu vi, căn tánh sâu xa của chúng sanh không tận hữu vi. Hiểu rõ mười hai pháp hữu vi đó, Bồ Tát hướng đạo khiến chúng sanh đều thông tỏ vô vi. Bồ Tát tuy trụ ở cảnh giới vô vi mà thực hành pháp không, vô tướng, vô nguyện.

Không trụ vô vi mà chấp vào chỗ chứng đắc của mình, liễu tri vô thường là pháp sanh diệt, công đức tu hành không cho là cực nhọc, quán thọ độc sanh ra nguồn cội các khổ, hộ trì chúng sanh kia tự phản tỉnh, quán các pháp diệt không có cứu cánh, quán pháp trừng tâm thấy không nơi chốn, quán vô sở sanh không thấy có sanh, quán niệm chúng sanh là trọng trách của mình.

Quán lậu, vô lậu không diệt tam giới, thực hành tứ đẳng tâm, thương mến hậu học, ý thường không chấp trước, không bỏ đệ tử theo đạo Duyên Giác.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát thanh tịnh ý chí theo lý tư duy, tùy theo chỗ ưa thích của người khác mà vì họ thị hiện phù hợp với chúng sanh trọn không trái nghịch nên được tất cả nguyện.

Do công đức trí tuệ nên tâm Bồ Tát trong sáng, mắt nhìn thấy sắc thì biết rõ sắc kia vốn là không, tu tập nhẫn nhục không khởi loạn tưởng. Nếu có kẻ sân hận mắng chửi, Bồ Tát chỉ niệm pháp đó, thông tỏ nội ngoại không nên không sở hữu, cũng không khỏi nghi ngờ mà biết rõ là không. Bồ Tát không tự thấy thân mình và thân người khác.

Vì sao như thế?

Với A Duy Việt Trí, toàn thân Bồ Tát đều hoan hỷ. Nếu có mong cầu thì tâm Bồ Tát vui mừng gấp bội, không trái nghịch với tiền nhân, không có tâm tham tiếc. Nếu có người xin vợ thì liền bố thí mà tâm không dao động.

Từng lời nói của Bồ Tát chỉ vì đạo vô thượng chánh chân, không quá ân cần khuyên người khác tinh tấn tu tập để làm Kim Luân Vương, Đế Thích, Phạm Vương. Vì mọi người nói pháp vi diệu, khiến họ phát tâm học đạo Bồ Tát.

Bồ Tát có thần thông dạo xem khắp mười phương cõi Phật, lễ bái cúng dường Chư Phật Thế Tôn. Giả sử ba ngàn Đại Thiên Thế Giới đều đầy các báu, tâm Bồ Tát trọn không khởi tưởng chấp trước, tất cả những gì mắt thấy đều vô sở hữu, cũng không nghĩ là ta sở hữu.

Tâm ý thanh tịnh không tưởng cầu sắc. Vì pháp thân không thể thấy nên thấy mọi người như pháp giới trụ liền được đầy đủ đạo nhãn thần túc.

Do được Tuệ Nhãn nên biết những gì sở hữu đều là vô sở hữu. Tiệm ngộ pháp tánh chân tế như thật thì đắc Phật nhãn và mười tám pháp bổn, pháp nhãn phân biệt thông đạt vô ngại. Đầy đủ mười lực, vâng giữ nguyện lớn thì đạt đến vô vi, cảnh giới bất tử.

Tối Thắng nên biết, pháp Bồ Tát tu tập cũng như đấng nhất thiết trí, do trụ trong pháp đã tu tập nên vô sở trụ, thông tỏ pháp trụ đó thì trụ vô sở trụ, học cũng như vô học.

Bồ Tát luôn niệm pháp không tịch, tùy thuận các pháp không có trái nghịch, không vì tùy thuận mà bình đẳng, không vì trái nghịch mà rơi vào biên tế, lại không tập theo tà rơi vào cảnh giới ma, cũng không học đại thừa vì cầu lợi.

Vì vậy nên Bồ Tát không rời bỏ pháp mà kiên tâm học pháp. Vì không rời bỏ pháp nên không phạm sai quấy, vì tự biết không còn tạo tác nên có thể chuyên tâm chế phục năm ấm, không còn rong ruổi liền vượt qua cảnh giới ma, không thể ở giữa đường quên lãng tâm Bồ Tát.

Bấy giờ Ngài Tối Thắng bạch Đức Phật: Vì sao gọi là bậc bất thối chuyển Bồ Tát trụ vô sở trụ, học cũng như vô học?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Bậc thất trụ Bồ Tát trụ trong ba cõi, không nhiễm ba cõi cũng không có pháp để tu tập. Không học tập, đó gọi là vì bên trong. Không cầu tập, đó gọi là vì bên ngoài.

Tuy Tập bên ngoài nhưng không tùy thuận theo đệ tử, quán chẳng có gì học cũng chẳng có duyên học. Điều gọi là Tập, sở học trong sanh tử, là pháp tu tập của Bồ Tát, chính là học vô tri.

Tập mà không có gì để tập, học mà chẳng có gì để học. Tập là danh sắc, tập là nhân duyên, tập là ngã kiến, tập là ái, tập là ngã sở cũng chẳng phải ngã sở. Tập tuy là tham nhưng học tập để bố thí.

Tập tuy phạm giới nhưng học tập để hộ giới, lại trong khi trì giới không tự sanh cống cao. Tập dù là sân tưởng nhưng học tập để nhẫn nhục. Tập là giải đãi nhưng học tập để tinh tấn. Tập là loạn tưởng nhưng học tập để được nhất tâm.

Tập là vô minh, học tập để có trí tuệ. Tập không quả báo nhưng học tập để có công đức. Tập là nghiệp thế tục nhưng học tập để có đạo nghiệp. Tập là vô thuyết nhưng học tập để đắc độ.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc thất trụ Bồ Tát tập vô sở tập, học vô sở học. Đến vô cực tuệ thì thấy tất cả các pháp không có được mất cũng không có pháp nhập hay không nhập, không thể nương vào sắc nhập cho là có nhập.

Thống thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy, không từ pháp sổ tức mà đến hữu cực, cũng không từ phi sổ tức pháp mà đạt đến vô cực cầu nhất thiết trí. Cần phải biết trụ như thế. Bồ Tát không tự niệm pháp, nói là ta tu tập. Hiểu rõ như vậy là nhất thiết trí. Bồ Tát muốn cầu nhất thiết trí phải từ trong tứ đại sở tạo sắc mà cầu.

Vì sao như vậy?

Vì chấp thân là chướng ngại thì phải thọ tứ sanh, không chấp thân thì xa lìa ái dục. Chỗ Bồ Tát trụ là chỗ trụ của trí như thật, vì vượt qua các cảnh giới nên trụ vô sở trụ, không chấp có sanh, không phải là sanh từ thai mẹ.

Nếu thấy sanh thì tất cả đều chẳng phải sanh. Vì biết rõ vô sanh nên có tên là vô sanh tuệ. Quán pháp bình đẳng đó chính là pháp bình đẳng vô cực, pháp Đại Thừa bình đẳng vô hạn lượng.

Khi Đức Phật giảng pháp này, mười một na thuật trăm ngàn vị thiên tử đều được vô sở tùng sanh pháp nhẫn, bảy vạn hai ngàn người đều phát đạo tâm vô thượng bình đẳng.

Bấy giờ vị Đại Thanh Văn thủ tọa, Trưởng Lão Ca Diếp cùng Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, A Na Luật, Ly Việt, Nan Đầu Bà La, Phân Nậu Văn Đà Ni Phất, Tu Bồ Đề…

Gồm năm trăm vị La Hán từ chỗ ngồi đứng dậy, Ca Sa tề chỉnh, gối phải sát đất, cúi đầu mặt sát đất trước chân Thế Tôn, đồng buồn bã cất tiếng than khóc nức nở bi thương rồi gạt lệ đến trước Đức Phật, thưa: Chỗ thấy biết của chúng con thật thiển cận, mãi mãi mất đi Thánh chủng.

Phật Đạo sâu xa huyền diệu mà chúng con không được ân thấm nhuần. Nếu có kẻ nam, người nữ phàm phu ở trong ba đường ác muốn cầu đạo nhất thiết trí thì phải phát tâm tối thượng mong thành tựu Phật Quả.

Vì sao như vậy?

Như hôm nay Thế Tôn đã dùng trăm ngàn pháp giảng cho chúng con. Chúng con không thể thành tựu phát Bồ Đề tâm nên trong lòng tự hối hận mãi mãi không thể đạt được tâm ấy.

Nay tuy được mọi người gọi chúng con là La Hán có sáu pháp thần thông vi diệu, đức vượt tam hữu, nhưng chúng con trong trăm ngàn vạn kiếp không nhơ bổn nguyện, tạo năm tội nghịch rơi vào ngục Vô trạch, mong mỏi diệt tội để có thể ra khỏi, dần dần tu tập giải thoát đến diệt độ, được phát tâm thành tựu đạo Bồ Tát. Nay chúng con các căn đã suy yếu già cỗi vô tác dụng mới nghe được pháp như vậy.

Vì sao?

Vì chúng con đã tiêu hoại hạt giống Bồ Tát. Chúng con buồn khóc than thở vì không thể thành tựu đạo Bồ Tát. Các loài bò, bay, máy, cựa có hình tướng, hoặc một chân, hai chân cho đến trăm ngàn chân đều nương nơi đất để sinh sống, ăn ngon, mặc các loại y phục đẹp láng mịn.

Các loài chim bay trên trời cũng nương nơi đất mà sinh sống. Chúng con tuy được đạo nhưng chỉ nuôi dưỡng thân tứ đại. Chúng con cùng loài cầm thú có gì khác nhau. Bọn chúng tuy có nhiều cấu tạp nhưng dần dần thoát được thân cầm thú, đầy đủ các đức thì thành tựu đạo đại thừa.

Chư Thiên và loài người đều đội ân giải thoát. Chúng con tự trách tâm chúng con quá nhỏ hẹp không dám nghĩ đến việc đạt đạo tối thượng nên đều sầu não, hối hận vì việc tu tập trước đây.

Lúc đó trong Pháp Hội, một ngàn bảy trăm người chưa chứng đạo tích, lúc trước tu tập theo pháp Thanh Văn, Duyên Giác đều phát tâm kiên cố cầu đạo vô thượng, ngay tại chỗ ngồi liền được pháp nhẫn vô sở tùng sanh.

Nhân đó Thế Tôn Giảng nói pháp lớn sáu độ, dạy pháp Tứ Đế: Khổ, tập, tận, đạo. Tứ ân, Tứ đẳng khiến tất cả chúng hội đều phát đạo tâm.

Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất nương oai thần của Đức Phật, bảo với chúng Bồ Tát đến trong hội: Thuở xưa, lúc tôi mới tu tập hoặc từ nhất trụ địa đạt đến ngũ trụ địa, lại thối lui mà trở lại Sơ Trụ địa. Lại từ Sơ Trụ địa đạt đến ngũ, lục trụ địa.

Như thế trải qua suốt sáu mươi kiếp, trọn không thể đạt đến bất thối chuyển. Tôi khởi lên niệm hối hận nhưng cũng chẳng đạt đến cứu cánh. Cho nên các vị nên giữ tâm như bậc tịnh giới, sở nguyện chắc chắn đạt được mà không phạm tục, dùng pháp trí tuệ thì không pháp nào không soi sáng.

Bồ Tát vì trụ nơi bất thối chuyển địa nên không chấp thí hay không thí, cũng không thấy trì giới, nhẫn nhục, tinh thần, tuệ nhất thiết trí. Cũng không theo Cõi Dục, Sắc, Vô Sắc.

Cũng không từ thân, khẩu, ý hành. Đối với tất cả pháp đều không chấp trước, biết chúng đều ảo hóa như ngựa hoang, tiếng vang thì chỗ trụ đều rốt ráo thanh tịnh, không có ngô ngã, thọ mạng dài ngắn, không thấy danh hiệu đạo tục thị phi.

Cũng không tự nghĩ rằng ta nên cầu pháp này, không nên cầu pháp này, không có tưởng buồn vui, vô duyên vô tác. Cũng không có sở sanh hay sở kiến, cũng không có xứ sở. Bậc khởi niệm như thế thì không có dục, nộ, si.

Học pháp không tăng giảm, không đọa ác thú, có tâm thoái chuyển. Muốn thành tựu Phật Quả thì phải tu tập như thế.

Vị ấy cũng không tạo tội, không tạo phước, không có thành đạo cũng không phải không có thành đạo, không có tưởng hay vô tưởng, thấy các pháp đều bình đẳng không có hơn kém.

Khi Ngài Xá Lợi Phất nói những lời đó, lại có vô ương số trăm ngàn chúng sanh đều phát đạo tâm Vô Thượng Chánh Đẳng.

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng đến trước Đức Phật thưa: Thế nào gọi là tất cả các pháp đều ảo hóa như ngựa hoang?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Ví như tưởng có người đến mà không thấy có chỗ để người đi, người đến, ngộ rõ các pháp cũng như vậy, không có chỗ đến, không có chỗ đi, trụ trong tánh tự nhiên, không thấy biến dị. Các pháp vô tác cũng không có ai tạo.

Thân Như Lai, một là Hóa Thân, hai là pháp thân. Pháp thân thì không thể thấy cũng không có hình tướng. Hóa Thân cũng như hư không vô hình.

Này Tối Thắng, đó chính là gốc tu hành đạt đến A Duy Việt Trí, có thể ở trong đại chúng cất tiếng Rống Sư Tử, tu tập trí tuệ, không ai có thể theo kịp. Công đức huân tập thuần thục thì các pháp thanh tịnh vô cùng thâm diệu không thể nghĩ bàn, cao ngất không lường.

Này Tối Thắng, bậc Đại Sĩ bất thoái Trụ ở Thất Địa thanh tịnh hạnh của mình như thế.

***