Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

 PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM CHÍN

PHẨM ĐỊNH Ý
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật: Thế nào gọi là bậc thường tịnh Bồ Tát ở địa thứ chín thanh tịnh địa của mình?

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Bậc cửu trị Bồ Tát tu tập Nhất tâm giải môn định ý, chánh định tam muội không tổn giảm mảy may, ở chỗ tịnh hay không tịnh luôn nhất tâm.

Tuy ở chốn trần lao đầy sân hận, Bồ Tát không khởi loạn tưởng, sanh vô số niệm, quán biết tâm ý thức chấp trước của chúng sanh bị duyên khổ đau phiền não trói buộc, do nhân báo ứng mà bị họa đó, lại cầu pháp quyền phương tiện hư dối, phải cầu phương tiện thiện xảo nào để được vĩnh viễn diệt độ mà được độ thoát.

Bấy giờ bậc đệ cửu Bồ Tát Đại Sĩ phải tư duy về tưởng chấp trước đó đều do tưởng không thuận chánh pháp. Từ vô minh, hành nên có duyên báo ứng đó, chỉ có nhất tâm khởi phát đạo niệm, niệm Phật, Pháp, các giới, thí, thiên, niệm An Ban, nhiếp trì thân và niệm tử vong, thủ hộ tất cả khiến không còn phiền loạn, tinh tấn tu tập như cứu lửa thiêu thì công đức đạt được sung mãn tất cả.

Nội tâm chí nguyện đều hướng về đạo quả, tu tập tuệ thông không pháp nào bỏ sót, luôn nhớ nghĩ tư duy thương xót tất cả chúng sanh: Do duyên gì mà chúng sanh có họa hoạn trần lao?

Bồ Tát theo lý tự quán sát tìm hiểu nguồn gốc nguyên nhân, thấy đều do minh mà có quả báo đó, do quả báo của hành phát sanh thì có thần thức. Thức đã có nơi nương náu thì gọi là danh sắc.

Danh sắc đã sanh đầy đủ thành lục nhập, do nhân nội ngoại tướng nên khởi cánh lạc xúc. Tâm đã nhiễm trước nên lại chuyển sanh thống thọ, hiểu rõ khổ vui mới sanh ái dục.

Căn Ái dục đã sanh thì cùng nhau thọ nhập chấp thủ sanh, lão, bệnh, tử, sầu ưu, khổ não. Dần dần làm lớn thêm báo ứng của dục ái. Bậc đệ cửu Bồ Tát quán báo ứng đó, suy tư sâu sắc về sự ràng buộc của trần lao là hư ảo, chẳng phải chân thật mà chúng sanh lại chấp chân lý không có thật, tự quán nhân duyên báo ứng.

Bồ Tát lại biết chúng sanh phân biệt quả đó thật đều không có xứ sở, ứng với điều không ứng, báo với điều không báo. Bồ Tát lại dùng pháp chân quán thanh tịnh khiến chúng sanh đã được thanh tịnh.

Bồ Tát luôn suy tư khuyến khích họ nỗ lực tinh cần tu định ý, trước phương tiện quán một Cõi Phật có bao nhiêu chúng sanh lập nguyện kiên cố tạo nghiệp công đức, tinh tấn tu tập đạo thọ vô lượng trang nghiêm. Có bao nhiêu chúng sanh nhập thiền định tịch tĩnh, dùng phương tiện thần túc biến hóa hiện khắp nơi.

Lại có bao nhiêu chúng sanh đảm đương trọng trách vì người mà nhổ tận gốc khổ để họ không còn phiền não. Có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ tam kết sử thành tựu đẩy đủ đạo tích. Có bao nhiêu chúng sanh đã làm suy yếu tam cấu, luôn được đến với đạo, vĩnh viễn không còn khổ.

Bao nhiêu chúng sanh không còn nạn do năm hạ phần kết sử trói buộc, không còn trở lại Thế Giới này. Có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ năm thượng phần kết sử, đến được giải thoát tự an vui.

Bồ Tát lại dùng ngũ nhãn thông quán sát các nơi u tịch mà giáo pháp chưa truyền đến, nơi đó đang có các bậc Duyên Giác ở trong núi rừng, tùy thời xuất hiện nhân gian giáo hóa. Bồ Tát lại tư duy nơi đó có thể thân cận hay không thể thân cận.

Như thế nào lại nói vị Tộc Tánh Tử nhất tâm quán sát các loại chúng sanh trong một cảnh giới Phật lập nguyện kiên cố tạo nghiệp công đức, tinh tấn tu tập đạo thọ vô thượng trang nghiêm?

Khi vị Tộc tánh tử Bồ Tát trụ ở địa thứ chín nếu thấy chúng sanh có tâm kiên cố liền tạo lập phương tiện quyền xảo làm thiện tri thức, tùy thời giáo huấn làm cho họ thêm tinh tấn, ủng hộ họ thành tựu ý chí kiên cố không bị lui sụt tan hoại, khai thị khuyến tấn khiến họ hiểu được pháp sâu xa, không tư lự viển vông đến gần trong nạn nguy hiểm.

Giả sử ngay lúc đó, phía trước có lửa lớn cháy hừng hực thiêu đốt một cõi Phật sáng rực, chúng sanh từ trong đó theo đường của Bồ Tát đến Thế Giới khác, nghe có Đức Phật giảng dạy đạo pháp, pháp không sanh, không diệt, không già chết liền có thể tinh tấn như trước.

Với những ai mất thân tự quy thì an ổn đến với thân khác không bị thiêu đốt, không còn nhiệt não, được tự thân chiêm bái Đức Phật kia, lễ bái phụng thờ cúng dường, tích tập pháp công đức thù thắng vi diệu liền được thành tựu cũng không thoái chuyển.

Giả sử nếu gặp biển rộng nước sâu, khắp cõi Phật trên, dưới, chung quanh đều như thế không khác, chúng sanh kia ở trong đó lập thệ nguyện có thể tự nương tựa, không khiếp sợ nạn tai vẫn làm việc công đức, chí nguyện kiên cố không lay chuyển. Đó gọi là bậc Bồ Tát ở cửu trụ địa tâm đại từ mẫn, không từ bỏ mà nhiếp hộ tất cả chúng sanh.

Như thế nào lại nói bậc Bồ Tát ở Cửu Địa quán chúng sanh nhập định tịch tĩnh, thần túc ứng hóa khắp nơi?

Lúc đó nếu Bồ Tát thấy chúng sanh ở tận trong núi sâu, nơi không có người, nhiệt tâm tư duy nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Khi ấy Bồ Tát lại thấy chúng sanh đó từ tứ thiền xuất, nhập Tam Thiền, Nhị Thiền, Sơ Thiền. Bồ Tát lại quán thấy có chúng sanh chỉ nhập sơ thiền, không nhập nhị, tam, tứ thiền.

Hoặc có người nhập nhị thiền, không nhập Sơ, Tam, Tứ Thiền. Hoặc có người nhập tam thiền, không nhập sơ, nhị, tứ thiền. Hoặc có người nhập tứ thiền, không nhập Sơ, Nhị, Tam Thiền.

Bấy giờ Bồ Tát cũng thấy có chúng sanh nhập không xứ, thức xứ, bất dụng xứ. Hoặc Bồ Tát quán thấy chúng sanh chỉ nhập không xứ, không nhập thức xứ, bất dụng xứ. Hoặc có vị chỉ nhập thức xứ, không nhập không xứ và bát dụng xứ. Hoặc có vị chỉ nhập bất dụng xứ, không nhập không xứ và thức xứ.

Hoặc có vị chỉ trụ tâm trong đệ tứ thiền, không trụ tâm trong tam thiền và cấp thiền định trên dưới của tam thiền. Bậc Bồ Tát trụ đệ Cửu Địa liền đi đến cùng người ấy kết làm bạn lành, khiến họ thành tựu công đức, không để họ sanh tâm mỏi mệt nhàm chán. Có thể làm cho chúng sanh đều chắc chắn thành tựu tâm kiên cố mới đáng được gọi là bậc cửu trụ địa.

Thế nào gọi là bậc Bồ Tát trụ đệ Cửu Địa đảm đương trọng trách, vì người mà nhận lãnh nhiệm vụ trọng yếu, luôn thay họ nhổ tận gốc khổ, làm cho họ không còn phiền não?

Lúc đó Bồ Tát dùng quyền phương tiện liền trụ trong năm đường, tùy thời cung cấp các vật dụng thích hợp như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh. Nếu có chúng sanh ở trong tám nạn, ba đường ác, Bồ Tát liền đến đó độ khiến cho người đó không còn khổ não.

Hoặc có chúng sanh ở trong chốn địa ngục, ngạ quỷ, Bồ Tát liền ban ân rộng lớn khiến mỗi chúng sanh đều được no đủ. Đó gọi là bậc đệ cửu Đa Bồ Tát vì chúng sanh mà đảm đương trọng trách.

Thế nào gọi là Bồ Tát khuyến dụ chúng sanh đoạn trừ tam kết, khiến cho thành tựu đạo tích, dần dần được chứng quả, vĩnh viễn không còn khổ đau?

Lúc đó Bồ Tát dùng phương tiện quyền xảo hiện vô số biến hóa, giảng dạy pháp Thanh Văn, Duyên Giác. Giảng về sự hỷ lạc của Niết Bàn vắng lặng vô vi, hoặc giảng về pháp vô sanh, vô diệt, hư vô của Bồ Tát Đại Sĩ.

Sau khi đã biết rõ tâm niệm của chúng sanh đó, Bồ Tát trước tiên luận về pháp yếu Đại Thừa Phương đẳng như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, đại từ, đại bi, tứ thiền, tứ đẳng, căn, lực, giác ý, bát Hiền Thánh đạo và Tam Ma Địa.

Chúng sanh đó nghe xong tâm ý kinh sợ, lông toàn thân đều dựng đứng. Bồ Tát tùy theo tâm ý họ khuyến tấn khiến họ thành tựu đạo quả. Có khi Bồ Tát quán sát chúng sanh từ xưa đã phát tâm Bồ Tát nhưng lại tự nghĩ mệt mỏi, nhàm chán vì không thể đạt được, liền muốn thoái tâm trở về đạo Thanh Văn.

Khi đó Bồ Tát đến chỗ người đó nói: Ngài tích chứa công đức từ xưa đến nay đã tu tập rất nhiều, các tướng tốt rạng ngời đang trang nghiêm thân, rộng độ chúng sanh tu tập Phật Độ, vì sao lại thoái lui trở về đường nhỏ?

Người đó nghe xong vô cùng hối hận, tự trách: Hỡi ôi! Ta sao lại như thế này?

Thật là đáng xấu hổ mới để cho bậc Bồ Tát Đạo nhãn thần thông thấy oán trách. Ta nay tự mình phải dõng mãnh tích công lập chí, giữ gìn tâm hoằng thệ vì tất cả chúng sanh, không bỏ nguyện xưa. Khi Bồ Tát đó khởi tâm niệm này, Trời Đất chấn động sáu cách, làm rung động Cung Điện của ma khiến Ma Vương không còn an ổn trên chỗ ngồi của mình.

Lúc đó tệ ma tự nghĩ: Trời Đất chấn động sáu cách, là ai thị hiện ra điềm tốt như vậy?

Chẳng phải Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Nếu không phải như thế thì chắc là bậc vô dục đắc A La Hán mới khiến có điềm tốt đến như vậy.

Nếu như không phải thế thì phải là Bồ Tát phát tâm kiên cố lập nguyện Đại Thừa, muốn cầu thành Phật một mình dạo đi trong ba cõi thương xót sự nguy khốn của chúng sanh.

Nếu không phải thế thì chắc là một trăm hai mươi tám tội vương, con vua nước cách sanh vào trong địa ngục dùng lý giáo hóa, tâm không tăng giảm.

Đây có thể là sự cảm ứng của sức thần biến đó. Nếu không phải thế, ta có vạn đứa con đều dõng mãnh kiên cường, tài năng phi thường luôn ở cạnh ta thống trị sáu cõi trời.

Đứa con nhỏ nhất của ta tên Ác Tử, bản tánh hung bạo, làm việc không nhân từ. Ta sẽ sai hắn đến xem thử để biết việc gì ở địa ngục, biết rõ thiện ác, phân biệt hiền ngu. Hắn cũng có sức thần túc cảm động đất trời. Nay phong cho hắn tên Trị Tội để trị Pháp Vương, trị vì tội không biết cao thấp, lập tức dẹp đi điềm cảm ứng thần biến.

Ma lại suy nghĩ: Ta có kẻ hầu cận tên A Bàng cũng có thể biến hiện oai đức vô lượng. Đúng ngày hắn sanh, đất trời chấn động lớn. Nếu hắn mạng chung, đất cũng chấn động lớn. Hắn có thể lập tức biến hiện các việc vô cùng quái dị.

Ma Vương suy nghĩ miên man như thế xong liền dùng thiên nhãn quán sát ba ngàn đại thiên Thế Giới, bèn thấy bậc tu hành đoạn dục đắc đạo quả Tu Đà Hoàn nay mới phát tâm Đại Thừa.

Ma suy nghĩ: Đúng là người này muốn làm trống rỗng cảnh giới của ta. Phải tìm cách để làm tiêu hoại thiện tâm của hắn. Khi ấy tệ ma tự thân cùng binh tướng ma đến chỗ của vị thiện nam tử. Thấy bậc Bồ Tát trụ cửa địa thân tâm luôn an tịnh, tâm Ma Vương kinh hoàng, lông toàn thân dựng đứng liền tự rút lui, không còn dám tiến tới.

Đó gọi là sức cảm ứng từ thần đức thường tịnh của Bồ Tát ngộ được đạo tích tịch tĩnh thành tựu đạo vô thượng, lập thệ nguyện trọn không rời bỏ.

Vì sao nói bậc cửu trụ Đa Bồ Tát quán chúng sanh loại biết được tam kết suy yếu, đắc Tư Đà Hàm, không còn dục, nộ, si, vĩnh viễn không còn khổ?

Khi đó Bồ Tát quán chúng sanh kia từ xưa đến nay tích chứa công đức, có người căn tánh thông lợi, có kẻ căn tánh chậm lụt.

Bồ Tát cũng thấy tâm chúng sanh thuần thục, hướng về việc thành tựu đạo quả, ý không thoái chuyển quyết đạt đạo lớn. Khi ấy người có căn tánh thuần thục thì khuyên bảo họ tinh tấn tu tập đạt đầy đủ các gốc công đức, thành tựu đạo quả.

Bồ Tát hướng dẫn để tâm họ không giải đãi, suy tầm để có thể thành tựu Tứ Quả, hoặc vượt lên trên chứng đắc quả thứ tư, không lưu trệ nơi quả A Na Hàm. Tất cả đều là công đức thường tịnh của địa thứ chín, chưa từng trái nghịch, xả bỏ tâm hoằng thệ.

Đó gọi là Bồ Tát siêng năng tinh cần tu tập không thể xưng lường, không chấp báo ứng mười hai nhân duyên. Bồ Tát trụ Cửu Địa tu tập thường tịnh nên đạt thanh tịnh, hoặc từ người khác nghe được pháp nhu thuận, tự thân phản tỉnh nhớ nghĩ theo pháp đó, nhất tâm chuyên cần chí hướng học tập, luôn ở nơi nhàn tĩnh, quán sát căn cơ của người trọn không sai lầm. Đó gọi là Bồ Tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị Tư Đà Hàm.

Thế nào là Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh đoạn trừ họa năm kết sử trói buộc, sanh lên cõi trời, tinh tấn tu tập, diệt độ cũng không trở lại thế gian này?

Lúc đó Bồ Tát lên Cung Trời ấy giảng pháp vô sanh, không đoạn diệt, rồi ở trước các vị ấy nhập diệt tận định thị hiện diệt độ. Các vị Trời chứng quả A Na Hàm ở Thế Giới đó tâm đều khởi ý nghĩ khuyên nhau nỗ lực đạt đến cảnh giới Vô Dư Niết Bàn để Bát Niết Bàn.

Bồ Tát tuy hiện pháp thù thắng vi diệu nhưng tâm không biến đổi, có bao nhiêu tâm niệm đều tự biết. Vô số việc trong các kiếp lâu xa, chỗ đã phát tâm ý thú ra sao đều liễu tri tất cả, không thấy có mất đi hay sanh trở lại, cũng không thấy có nơi dừng trụ, quán niệm không có chỗ sanh vốn không có xứ sở, tự đạt đến thanh tịnh vắng lặng vô vi. Đó gọi là Bồ Tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị A Na Hàm.

Thế nào là Bồ Tát quán sát chúng sanh giáo dưỡng người học đạo đạt được tâm không chấp trước?

Lúc đó Bồ Tát trụ đệ Cửu Địa dùng thiên nhãn quán ba ngàn đại thiên Thế Giới, ai sắp tận trừ các lậu, ai được đạo quả. Quán như thế rồi, Bồ Tát hoặc thấy có mười, có trăm, có ngàn, thậm chí đến vô số không thể tính đếm người đoạn trừ kết sử cùng lúc, cùng ngày, sắp thành tựu tâm vô cấu, đắc A La Hán.

Khi ấy Bồ Tát dùng sức thần túc trong một ngày đi khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới, dùng quyền phương tiện ủng hộ họ, khiến cho mỗi người theo chí hướng thích hợp mà đạt được tâm vô chấp, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, được giải thoát tịch tĩnh. Đó gọi là Bồ Tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị A La Hán.

Thế nào là Bồ Tát khuyến trợ các vị tu tập Duyên Giác thừa đạt được tâm vô chấp?

Khi đó Bồ Tát lại dùng thiên nhãn quán sát các Thế Giới, những nơi u tịch trong núi cao hay đất bằng, thấy có các vị độc cư tu tập định chỉ tịch tĩnh một cách thiện xảo, tư duy về bốn mươi ba pháp định chỉ tâm.

Bấy giờ Bồ Tát cũng đến nơi ấy, cách chỗ đó không xa trải cỏ trên đất, ngồi kiết già để niệm trước mặt, cũng không có tà kiến, nội tâm tư duy muốn thị hiện phương tiện để giáo hóa, hoặc thị hiện sấm chớp âm thanh vang rền, hoặc hiện ra các cây cối cọ xát với nhau phát sanh ra ánh sáng của lửa sáng hơn ánh sáng lửa thường. Hoặc hiện ra tiếng kêu của các loài cầm thú, chim phượng.

Khi ấy Bồ Tát ở trước các vị đó đột nhiên thân vọt lên hư không hiện mười tám loại biến hiện tự tại, thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân phát ra lửa nước mà không bị tổn hại.

Các vị Duyên Giác thấy sự biến hóa đặc biệt thù thắng đó, mỗi vị tự nghĩ: Chúng ta phải cùng nhau tu tập để mau thành tựu Phật Đạo có các tướng trang nghiêm thân. Chúng ta nên cùng khuyến trợ nhau tinh tấn tu tập không lười nhác.

Các vị ấy, mỗi người ở mỗi thời điểm khác nhau rời khỏi khu núi rừng kia đi vào xóm làng, đến từng nhà khất thực để tự nuôi sống.

Khi ấy các vị đó hoặc nghe tiếng âm nhạc trống đờn, hoặc tiếng khóc than bi lụy, nội tâm xót xa thương cảm như bị lửa thiêu, đột nhiên tự ngộ trừ tận các lậu, tâm ý giải thoát nên có hiệu là Vô Trước Duyên Giác.

Việc làm của Bồ Tát trụ ở Cửu Địa là như thế, trí tuệ thông đạt không cùng cực. Bậc Duyên Giác tuy có công đức quang tướng cũng không bằng tướng công đức một sợi lông của Đức Như Lai.

Các vị ấy hợp nhau tu tập tạo công đức khiến mỗi lỗ chân lông trên toàn thân đều có công đức thì cũng không bằng công đức tướng mi trắng giữa chặng mày của Đức Như Lai. Họ lại tu tập để được tướng đó thì cũng không bằng công đức đảnh tướng của Như Lai.

Giả sử chúng sanh trong ba ngàn đại thiên Thế Giới đều trọn đức tin với Phật, với Pháp, với Tỳ Kheo Tăng, giả sử tín tâm đó gấp trăm, ngàn, vạn lần hơn nữa cũng không bằng một phần trăm, ngàn, vạn lần đức tin của người có đức tin tôn thờ pháp.

Lại nữa, giả sử người có đức tin tôn thờ giáo pháp tập hợp công đức trí tuệ, nghe pháp, bố thí suốt ba ngàn cõi cũng không bằng gốc công đức đã tạo của bậc kiến đạo.

Lại nữa, nếu mỗi vị kiến đạo đem công đức đó, cho đến vô cấu và trí tuệ của mình gấp lên trăm, ngàn, vạn lần thì cũng không bằng công đức trí tuệ của một vị Duyên Giác.

Giả sử trong ba ngàn đại thiên Thế Giới có vô số các vị phát tâm Bồ Tát, trí tuệ tri thức của các vị đó gấp lên trăm, ngàn, vạn lần thì cũng không bằng công đức đã tạo của một vị A Duy Việt Trí.

Lại đem trí tuệ của các bậc Bồ Tát A Duy Việt Trí trong ba ngàn đại thiên Thế Giới trên gấp lên trăm, ngàn, vạn lần để so sánh thì cũng không bằng một phần trong trăm, ngàn, vạn phần công đức đã tạo của một vị Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ.

Lại nữa, giả sử có vô số Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ trong ba ngàn đại thiên Thế Giới cũng không bằng công đức tuệ lực của một Đức Như Lai.

Này Tối Thắng, tâm trí quán chiếu sáng tỏ của bậc Bồ Tát trụ ở Cửu Địa là như thế, thông tỏ tâm ý của chúng sanh ba đời, theo bệnh mà điều trị, tế độ cho tất cả. Ta nhớ lại khi ta còn tu tập ở Cửu Địa đã độ thoát cho vô số người mê mờ.

Từ khi mới phát tâm đến khi trụ ở địa thứ chín, trong khoảng thời gian ấy ta đã độ một A tăng kỳ vị A La Hán, trừ tâm cấu uế cho họ khiến vĩnh viễn không còn chút cấu uế. Từ Tu Đà Hoàn đến A Na Hàm cũng có một A tăng kỳ vị, tất cả đều thực hành Tứ Đế, tu tập tưởng tri diệt.

Lại khuyến khích chúng sanh phát tâm Bồ Tát, mỗi vị đều lập ý chí kiên cố không thoái chuyển gồm một a tăng kỳ vị. Sau cùng, khi giáng thần xuống Cõi Dục sanh vào Cõi Trời Đâu Thuật, ta muốn đoạn trừ dây ái, năm mười chín tuổi suy tư về mối họa của dục ái thế gian.

Lúc ấy Ta dùng sức lực dõng mãnh biện tài vô sở úy, bỏ sạch tất cả, thần thức an định tận trừ các lậu, pháp hư ngụy.

Dùng tâm vô lậu tu tập giải thoát, dùng gươm bén trí tuệ cắt đứt dục trần, chứng được thần thông, tôn thờ hạnh ấy, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, các việc nên đã làm nên không còn thọ thân sau, biết như thật pháp tu tập đại từ mẫn của Bồ Tát, oai nghi lễ tiết không thiếu sót, trụ trong công đức tuệ kiên cố, tất cả ma và các ngoại đạo không thể xâm phạm hạnh nghiệp của Bồ Tát.

Ta vì các chúng sanh đang đầy dục lậu giảng pháp vô lậu, pháp vô sanh diệt, trừ các tưởng chấp trước không có hạn lượng. Tối Thắng nên biết, lúc ấy ta tư duy nhập vô tận tuệ, quán pháp thọ sanh của Chư Phật ở quá khứ, việc làm của các Ngài đều bình đẳng, không thiên lệch.

Pháp mà Chư Phật Thế Tôn đã tu tập đều bình đẳng, đạo pháp hay thế pháp, hữu số hay vô số, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu, với các pháp đó đều bình đẳng. Vì vậy nên gọi là Đẳng Chánh Giác. Pháp bình đẳng là phải bình đẳng với người và mình.

pháp đó đồng với tự nhiên không thấy có khởi, có diệt, tự nghĩ các pháp đã tu tập chính là để thoát khỏi hữu lậu nên phải cấm chế, rộng tu pháp bình đẳng.

Nếu tâm tà loạn không tinh cần chuyên chú thì phải niệm điều phục tâm không để rong ruổi, an định tâm rồi thì tất cả đều vô sở hữu, đều bình đẳng đồng như tự nhiên.

Lại nữa, nếu tâm không tàm quý phải dùng phương tiện khiến khởi niệm sợ hãi. Lại nữa, nếu lúc đó thân, khẩu, ý làm điều ác, pháp bất thiện thì phải tư duy trừ bỏ, diệt tận không để nó tăng trưởng.

Nếu tâm có niệm đố kỵ, ganh ghét, ngu si, đầy pháp hữu lậu thì phải tìm cầu phương tiện thiện xảo trừ bỏ để chúng vĩnh viễn không còn.

Nếu khởi tâm niệm giết hại, trộm cướp, dâm dục, nói dối, uống rượu thì phải tư duy thẩm suy nguồn gốc bại hoại của chúng.

Nếu ý khởi tham dục mê đắm danh vọng quyền quý, khinh thường người khác. Có người thỉnh cầu pháp sâu kín thì sanh tâm sẻn pháp, khinh hủy cấm giới, không thuận theo pháp luật, dạy người tu tập nhập định tịch tĩnh mà không theo pháp thiền định, hoàn toàn không khởi tâm niệm Phật, Pháp, Tăng.

Tâm sanh cống cao kiêu mạn với Pháp Sư. Nếu có người như thế thì những người đó đều làm hại thánh đạo, không nên gần gũi tu tập pháp đó.

Nếu sanh tâm mạn: Một là tự đại, hai là thậm mạn, ba là mạn mạn, bốn là ngã mạn, năm là tà mạn, sáu là đẳng mạn, bảy là vô ngã đẳng mạn, thì phải giữ gìn tuệ ý khiến các tâm đó vĩnh viễn không thể khởi sanh, hiểu rõ chúng đều vô sở hữu, đều vô sở khởi, bình đẳng không phải hai cũng không phải nhiều. Các pháp đó đều tự nhiên, không có xứ sở. Đó gọi là bình đẳng Chánh Giác của Bồ Tát.

Nếu tâm khởi niệm loạn tưởng: Một là tà kiến, hai là tà niệm, ba là tà ngữ, bốn là tà nghiệp, năm là tà trị, sáu là tà phương tiện, bảy là tà ý, tám là tà định thì luôn phải đình chỉ các tâm niệm đó để chúng không làm tổn hại.

Lại nữa, khi tâm khởi sanh ý nghĩ ngang quấy: Ta luôn được tôn kính nên sanh tâm khinh thường người khác. Nếu hiện tại có tâm khinh thường người khác thì có thể tương lai sẽ bị khinh khi.

Ta luôn bị người ghét bỏ, nay họ cung kính hắn. Nay họ cung kính hắn hơn ta. Ta phải làm sao ở tương lai họ phải tôn kính ta.

Người ấy lại suy nghĩ: Từ trước đến nay họ khinh khi ta, hiện nay họ cũng khinh khi ta như lúc trước.

Làm sao biết trong tương lai họ không khinh khi ta?

Nếu người có tâm như thế thì chính là nhành rễ làm hư hoại Thánh Đạo, theo điên đảo mà càng làm sanh ấm cái phiền não, nương tựa tà kiến theo dục vọng, tự mình đánh mất xa rời nhân đạo.

Có khi người ấy tâm niệm khởi mười pháp ác phóng dật bất thiện: Một là giết hại, hai là trộm cướp, ba là dâm dật, bốn là nói dối, năm là nói làm chia lìa hai người khác, sáu là nói lời ác, bảy là nói lời thêu dệt, tám là hại hận, chín là tật đố, mười là tà kiến. Nếu thân, khẩu, ý sanh khởi đủ mười pháp đó thì phải lánh xa, không tạo duyên đó, phải trừ bỏ các pháp đó không để chúng làm chướng ngại.

Lại phải suy tư nguyên nhân diệt pháp ác, do đâu sanh ra pháp thiện, thông đạt thiện ác đều vô sở hữu, là hư giả, chẳng phải chân thật, chúng đều bình đẳng không hai.

Bồ Tát tuy đã thành tựu trụ địa thứ chín nhưng luôn tư duy về các pháp uế trược: Nay ta sở dĩ thành tựu đạo vô thượng, tu tập đạo Bồ Tát đều do tu tập từ mười pháp ác ngu si nên được đầy đủ ngũ phần pháp thân, đến thẳng Nhất đạo không theo nhiều hướng. Bồ Tát phân biệt rõ ràng không, vô tướng, vô nguyện. Lại tinh cần tu tập tứ ý chỉ.

Bốn pháp đó là gì?

Bốn pháp đó là thân, thống thọ, ý tâm, pháp. Quán chiếu thông đạt pháp không, hướng tâm đến Tứ Thiền, Tứ Đẳng, Tứ Không Định, Bát Duy Vô, Cửu Thứ Đệ Định. Bồ Tát lại cần phương tiện rời xa pháp sanh, thể nhập pháp vô sanh nên mới gọi là đạo Hiền Thánh bình đẳng.

Tất cả pháp đều hữu tận mà cũng không hữu tận. Thông đạt tận và vô tận thì mới hợp với vô sanh. Tất cả trần lao là pháp tận của Bồ Tát, nếu chúng không còn sanh khởi thì gọi là vô tận. Dục ái trói buộc là pháp tận của Bồ Tát, nếu chúng không còn sanh khởi thì gọi là vô tận.

Sân hận, xan tham là pháp tận của Bồ Tát, nếu chúng không còn thì gọi là vô tận. Đạo mê loạn là pháp tận của Bồ Tát, không giải thoát thì gọi là vô tận. Ý an chỉ nơi pháp đoạn là pháp tận của Bồ Tát, nếu không còn ý đoạn thì gọi là vô tận.

Căn, lực, giác đạo là pháp tận của Bồ Tát, nếu không có chúng thì gọi là vô tận. Bốn quả Sa Môn là pháp tận của Bồ Tát, không có bốn quả đó thì gọi là vô tận. Có đạo Duyên Giác là pháp tận của Bồ Tát, hiểu rõ không có Duyên Giác thì gọi là vô tận.

Có đạo Bồ Tát là pháp tận của Bồ Tát, nếu không có thì gọi là vô tận. Bình đẳng Chánh Giác là pháp tận của Bồ Tát, không có bình Đẳng Giác thì gọi là vô tận. Chứng ngộ thành tựu Phật Đạo là pháp tận của Bồ Tát, không thấy có thành tựu thì gọi là vô tận.

Đến cội cây của Chư Phật là pháp tận của Bồ Tát, không đến đó thì gọi là vô tận. Tu tập tướng hảo và thanh tịnh Cõi Phật là pháp tận của Bồ Tát. Giáo hóa nhân dân, hiển dương pháp yếu là pháp tận của Bồ Tát.

Tu tập pháp không, vô tướng, vô nguyện là pháp tận của Bồ Tát. Có tâm mong cầu nên chuyên tâm tu tập gốc công đức là pháp tận của Bồ Tát. Tạo lập các công đức, truyền bá đạo lớn là pháp tận của Bồ Tát.

Tâm Bồ Tát trụ không có cao thấp cũng không thấy có trong, ngoài, trung gian là pháp tận của Bồ Tát. Không thấy các hạnh tu tập của phàm phu, cũng không thấy hạnh Hiền Thánh là pháp tận của Bồ Tát.

Tuy ở trong sanh tử nơi pháp nhiễm ô mà không thấy nhiễm trước là pháp tận của Bồ Tát. Bồ Tát giảng nói về diệt độ, quán diệt độ không còn sanh cũng không trụ diệt vĩnh viễn, chấp giữ diệt độ là pháp tận của Bồ Tát.

Ngộ rõ chân tế cũng không tùy thuận là pháp tận của Bồ Tát. Không mong cầu xa rời các cõi ma là pháp tận của Bồ Tát. Dùng nghiệp tuệ rộng lớn không cho là hèn kém là pháp tận của Bồ Tát. Luôn phải tu tập biết thời là pháp tận của Bồ Tát.

Không xa lánh các pháp duyên khởi là pháp tận của Bồ Tát. Không theo chân lý, không phải không có chân lý là pháp tận của Bồ Tát. Tuy ở nhân gian mà thấy không khác chốn nhàn cư là pháp tận của Bồ Tát.

Ở trong chốn ồn náo tùy thuận thế tục không giữ gìn oai nghi là pháp tận của Bồ Tát. Nếu trụ trong thiền tịch tĩnh mà không diệt thân, ý là pháp tận của Bồ Tát. Không thấy có bố thí, hay chẳng phải không bố thí là pháp tận của Bồ Tát.

Với giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, không thấy có tu tập cũng chẳng phải không có tu tập là pháp tận của Bồ Tát. Tự chứng ngộ tam minh, nhãn sanh trí tuệ khởi, dạo qua các thần thông, không thấy trần lao.

Sanh, diệt luôn trụ ái dục cũng không mệt mỏi nhàm chán là pháp tận của Bồ Tát. Ở Tu Đà Hoàn vị tu tập đạo tích cũng không từ bỏ việc tu tập đạo lớn là pháp tận của Bồ Tát.

Thấy Phật pháp mất, không mất có tâm sợ hãi, cũng không thấy số kiếp dài ngắn là pháp tận của Bồ Tát. Không thấy cú thể, tự thể, vị thể.

Điều này là hữu số, điều kia là vô số là pháp tận của Bồ Tát. Tu tập gốc dâm, nộ, si mà không thành tựu chân lý là pháp tận của Bồ Tát. Không khởi pháp nhẫn cho đến không sanh khởi trí tuệ là pháp tận của Bồ Tát.

Chín cõi của chúng sanh Dục Giới và vô tư tưởng giới là pháp tận của Bồ Tát. Dạo qua thôn xóm, quận huyện, Cung Điện của Chư Thiên, Cung Điện của Long Vương, các Cung Điện thần diệu, ở các nơi đó tu tập oai nghi lễ tiết, có nơi đáng gần gũi, có nơi không đáng gần gũi là pháp tận của Bồ Tát.

Này Tối Thắng, đó gọi là pháp môn hữu tận vô tận của bậc cửu trụ Đa Bồ Tát. Sự tu tập của Bồ Tát không có pháp nào không bao hàm pháp yếu giải thoát hữu tận vô tận.

Chúng sanh khổ não, Bồ Tát cũng tập rồi vì họ mà giảng nói tánh của Khổ Đế: Nếu nhãn thấy sắc có khổ, có vui thì tư duy nhãn thức đều là hư tịch, tu pháp bình đẳng, tiêu diệt họa hại. Bồ Tát luôn dùng chánh pháp hóa độ chúng sanh đến giải thoát vắng lặng.

Đó gọi là Bồ Tát vì chúng sanh khổ mà diễn bày khổ tuệ: Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, sầu bi áo não là khổ, oán ghét mà phải gặp gỡ là khổ, yêu thương mà phải ly biệt là khổ, mong muốn mà không đạt được là khổ. Nói tóm lại, năm ấm khởi thạnh là khổ. Thấu tỏ khổ đó cũng không khởi diệt. Đó gọi là pháp môn hữu tận vô tận của Bồ Tát.

Lại nữa, nếu Bồ Tát thấy chúng sanh phiền não thì vì họ diễn thuyết pháp căn bổn của tâm chấp ái: Tâm ái thâm sâu kiên cố, chấp ái sâu dày khó thể nhổ bỏ. Ta trước có thệ nguyện quyết trừ bỏ sạch. Nếu không diệt tâm ái thì hoàn toàn không thể chứng ngộ.

Khi ấy Bồ Tát dần dần chuyển nhập vào pháp quán sát dung nhan. Ở trước chúng sanh, Bồ Tát hiện rõ dung mạo của mình. Người xem đều khen ngợi, ai ai cũng tôn phụng. Trong khoảnh khắc, Bồ Tát biến hiện thân trở nên xấu xí.

Người xem thấy, tâm liền biến chuyển nghĩ đến vô thường: Thân này chẳng phải chân thật, không kiên cố. Dung mạo chúng ta dù ở thế gian đẹp đến mấy không lâu sau thì phải biến hoại. Nên phải tự mình tu tập, trừ bỏ tâm chấp trước, không mê luyến ân ái. Bồ Tát lại vì chúng sanh có phiền não làm tăng trưởng lợi ích cho họ như thế.

Lại nữa, nếu Bồ Tát thấy chúng sanh trú tận thì dùng phương tiện quyền xảo nói pháp cho họ: Sanh rồi cũng chết, thành rồi cũng bại. Giả sử tuổi thọ đến ức hằng sa kiếp rồi cũng đều diệt tận, không thể tồn tại mãi. Các Tộc Tánh Tử nên biết pháp vô thường biến chuyển như ảo như hóa, không chân thật.

Bồ Tát ngộ rõ chúng không chân thật nên mới đạt thanh tịnh, không nhiễm ô. Tập do tích chứa mà không xả bỏ chúng, nên dùng pháp tận diệt quán chúng đều vô sở hữu, cũng không thấy có chỗ khởi diệt. Nếu có người tâm sanh kiêu mạn, ngu si chấp là thường, là vô thường thì Bồ Tát dùng tuệ không, vô tướng, vô nguyện để phân biệt.

Có khi Bồ Tát vì họ giảng đạo nhất thừa cứu cánh dạy các Tộc Tánh Tử phải nhớ nghĩ tư duy bảy pháp quán, như sự phân biệt sự thành hoại của năm ấm, chúng sanh do đâu mà có tai họa ấm cái, tư duy rõ ràng sự hưng khởi của sắc: Trước kia do có sắc tướng nên ta sanh thức chấp trước. Do thức nên sanh ra thống thọ cùng nhau thọ nhập, khởi ý sanh tưởng chuyển thành hành nghiệp. Đó đều là do một pháp sắc mà biến thành năm pháp.

Thống thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Lại nữa, nếu Bồ Tát thấy chúng sanh khởi lên mười tám ấm độc hại suy hao nhiễu loạn tâm người, khiến tâm họ chướng ngại không đạt đến giải thoát, bèn dần dần dùng phương tiện khéo léo ôn hòa hỗ trợ. Phải dùng phương tiện khéo léo khiến họ thành tựu không để họ đọa lạc.

Lại nữa, nếu Bồ Tát thấy chúng sanh đó tâm luôn có ái thì dạy họ suy tư không thấy có ly biệt, cũng không thấy bị ly biệt. Đó gọi là đầy đủ bảy pháp quán. Bồ Tát cũng không quên bỏ pháp quán hạnh, quán xét bệnh trì trệ, phân biệt lạnh nóng của thân mình. Quán khắp thân mình xong lại dạy cho người khác tu tập được thành tựu.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc cửu trụ Đa Bồ Tát tu tập pháp chỉ quán, cũng không có tâm sợ hãi. Tứ Thiên Vương Thích, Phạm, Rồng, Sa Môn, Phạm Chí và Ma đều không thể nào ẩn thân. Trong khi Bồ Tát tu tập chỉ quán không bị khó khăn chướng ngại với pháp Chánh Giác.

Vì thế nên Bồ Tát thấy rõ, thông đạt tất cả pháp háp đều là bình đẳng với pháp phàm phu và đạo Hiền Thánh, tâm như hư không, không thiên lệch. Pháp học hay pháp vô học, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật pháp cũng đều bình đẳng.

Lại nữa, có khi Bồ Tát thấy có pháp lậu và pháp vô lậu, phân biệt pháp thế tục và pháp độ thế, trừ sạch tâm chấp trước thì mới thành tựu đạo Bồ Tát.

Vì sao?

Vì quán không nên gọi là tự nhiên. Lửa mạnh tự nhiên đến, lửa mạnh tự nhiên diệt. Không với thật bình đẳng, tướng và vô tướng bình đẳng, nguyện và vô nguyện bình đẳng. Pháp ở trong ba cõi đều đồng với tự nhiên.

Bồ Tát lại phải tư duy pháp sanh bình đẳng với pháp vô sanh. Quán pháp và không tu tập quán pháp cũng bình đẳng. Nương tựa và không nương tựa, bình đẳng và không bình đẳng, khởi và không có pháp khởi đều là tự nhiên.

Chẳng có tự nhiên trong ba cõi bình đẳng, không thấy Cõi Dục, Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc. Bồ Tát lại phải tư duy suy lường đạo dâm, nộ, si và minh tuệ đều là tự nhiên, thoát khỏi ràng buộc của ái dục mới chính là thành đạo, thể nhập cảnh Nê Hoàn đều biết rõ là vô nhị bình đẳng tự nhiên.

Đó gọi là Bồ Tát tu tập tâm từ mẫn, vì chúng sanh bày vô số các loại nhân duyên, hóa độ chúng sanh tùy theo căn cơ của họ. Bồ Tát theo tâm niệm ứng hợp của mỗi người mà phân biệt nói khiến họ đều có tâm hòa thuận trụ nơi đạo đại thừa, tiêu trừ sạch gốc khổ não.

Bấy giờ Bồ Tát ở trong đại chúng một mình không sợ hãi, hoàn toàn không bạn lữ mà không cô độc, gốc các công đức như chuỗi anh lạc tự trang nghiêm thân. Nếu ở trong chúng Đại Sĩ, Bồ Tát liền có thể diễn xướng Phật Đạo tối thượng, thương xót hàng Thanh Văn không đạt thượng trí.

Họ tuy dã dứt hết các lậu nhưng không rời khỏi nơi an trụ, chỉ tự cởi bỏ dây trói buộc phiền não mà không có tâm quảng đại. Bồ Tát lại nghĩ đến hàng Duyên Giác không có tâm hoằng pháp làm lợi ích chúng sanh.

Họ có thánh trí biện tài, tâm thanh tịnh không tì vết, cũng có thể biết căn tánh và chí hướng của người khác nhưng chỉ tự thủ ở nơi Quốc Độ bất tịnh. Vì vậy Bồ Tát ở trong đó đặc biệt xuất hiện, giảng nói phân biệt sự thành tựu Phật Đạo tôn quý.

Mười phương vô số các chúng sanh ưa thích, tin tưởng đều được tế độ. Tâm các vị Duyên Giác luôn thương cảm vì không đạt được đạo nên dùng sức dõng mãnh hàng phục ngoại đạo, thường chuyển pháp luân không ngưng đoạn, pháp lớn vi diệu thù thắng truyền bá khắp thế gian.

Như vậy, này Tối Thắng, bậc cửu trụ Đa Bồ Tát thị hiện phương tiện thích hợp giáo hóa khiến không ai không được thể nhập, ngộ rõ Niết Bàn cũng như tướng Niết Bàn, nghĩa là có chân lý cũng không có chân lý.

Không tuệ vô chủ cũng không trụ xứ nên gọi là vô vi tự nhiên khoái lạc. Họ cũng không trụ đây, cũng không trụ kia, đều không xứ sở, không hình, không đối tượng nên không thể thấy, trụ vô sở trụ.

Đó gọi là vi trụ, gọi là trụ pháp giới. Đó gọi là vi tận, là vô sở sanh. Đó gọi là Niết Bàn tịch diệt vô vi. Chỉ còn ba mươi bốn pháp vi tế kết, ngoài ra các trần lao không còn làm chướng ngại.

Khi bậc cửu trụ Đa Bồ Tát đắc Chánh Giác, hiện tại diệt bốn pháp, tương lai diệt bốn pháp, quá khứ diệt bốn pháp, ngồi dưới cội Phật thọ hàng phục ma xong, giữ tâm nhẫn điều hòa, ý thể nhập định vô tướng, quán khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới: Ta nay ở tại cõi thế gian ngũ trược này sẽ thành Phật.

Điều mong cầu đã làm xong không còn nghi ngờ gì nữa. Ta nay nên dùng phương tiện quyền xảo vì chúng sanh tuyên bày đạo nghĩa trừ sạch các lậu kết để họ thành tựu như ta hôm nay không khác.

Lúc đó các Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở mười phương, mỗi vị đều ở cõi của mình từ xa khen ngợi: Hôm nay ở phương đó, Quốc Độ đó có Đức Phật xuất hiện, có đủ ba mươi hai tướng của Đại Nhân, tám mươi nét đẹp trang nghiêm thân. Ánh sáng chiếu đến nơi u tối, thanh âm như loài chim loan phượng.

Lành thay! Phật chủng không bị dứt đoạn. Khi Chư Phật mười phương nói lời đó, Ba Ngàn đại thiên Thế Giới hiện ra chấn động sáu cách.

Chư Thiên, Rồng, Thần, Càn Đạp Hòa, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân và Phi Nhân, các loại Ma như Thiên Ma đều kinh hoàng, không ở an nơi chỗ của mình, đều cùng nhau tụ hội đến nơi Phật ngự, cúi đầu kính lễ, tự quy mạng, theo hầu Đức Như Lai thành Tối Chánh Giác.

Tất cả đều đạt tâm thanh tịnh, không có oán hận, đều có tâm tôn trọng pháp Cam Lộ, đầy đủ các điều thiện, đạo pháp vô lậu. Tâm niệm dõng mãnh tu tập các pháp giải thoát.

Đức Phật quán sát tâm niệm thích ứng của chúng sanh tùy thời thị hiện nói pháp khiến mỗi người đều được thỏa chí. Vì diệt trần lao, đạt được giải thoát tịch tĩnh hoàn toàn nên dạy chúng sanh loại trừ tâm ngô ngã, dứt hẳn tâm bỉ thử, không còn chấp tướng, không thấy nương tựa pháp hay nương tựa phi pháp, chẳng phải không có nương tựa cũng chẳng phải không có không nương tựa, đốn ngộ các pháp bình đẳng như hư không, như tiếng vang, như ảo hóa không có thật.

Đó là đến được bên kia bờ sanh tử không còn sanh trở lại trong vòng sanh tử tuần hoàn. Công đức phước báo hưng long đạo nghiệp của bậc cửu trụ Đa Bồ Tát cũng không cùng tận, tu tập chân chánh không còn tâm niệm hoài nghi, ở trong các pháp vô lậu cũng không còn chút nhiễm ô, ở trong các pháp không còn nhiễm ô, không thấy thủ xả, thoát khỏi hoàn toàn Cõi Dục, Cõi Sắc và Cõi Vô sắc.

Tâm đều quy về trí tuệ vô sanh, giảng rộng truyền bá khắp nơi khiến mọi người đều được nghe hiểu. Như vậy, này Tối Thắng, hạnh nghiệp tu tập của bậc Bồ Tát cửu trụ địa oai thần cao vút, siêu việt khác thường thế gian. Nếu ở trong chúng, Bồ Tát giữ gìn oai nghi, không mất lễ tiết. Mọi hành động, mắt nhìn đều thuận theo chánh pháp, vận y phục cũng không hào nhoáng.

Nếu muốn vào Quốc Độ, quận huyện xóm làng, Bồ Tát mang pháp y, bình bát, tâm luôn thư thái, đi đứng qua lại, ngồi, nằm, đứng dậy tâm luôn suy tư chân lý.

Lời nói êm dịu nhu hòa không có tâm hung ác, lời giảng pháp như hư không, không có tâm niệm chấp trước, tu khổ hạnh đạt đến chỗ thâm sâu, không tạo duyên báo ứng, tâm niệm hành động đều chuyên chú vào Phật Đạo.

Này Tối Thắng, Bồ Tát trụ Cửu Địa vì thế có tên là nhất trụ phi cửu trụ. Với địa thứ tám, thứ bảy, thứ sáu, thứ năm, thứ tư, thứ ba, thứ hai và sơ địa, Bồ Tát đều chẳng trụ. Bồ Tát tinh tấn tu tập đệ Thập Địa, pháp Thành Địa, Đế Địa, Vô Khủng Cụ Địa, cũng có tên là Như Lai Địa.

Đạo Địa, Định Địa, Vô Sở Úy Địa, Quán Địa, Tuệ Địa, Tự Nhiên Tánh Địa. Bồ Tát đạt được pháp Thập Địa đó thì không còn tên gọi Bồ Tát phải xưng là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Chúng Hựu, không ai sánh bằng, đầy đủ mười tám pháp thù thắng, giảng pháp luôn biện tài không khi nào không đúng thời.

Các hạnh viên mãn thị hiện sanh lên Cung Trời Đâu Thuật thanh tịnh không tì vết, hoặc thị hiện giáng thần tiếp độ chúng sanh. Đó gọi là Bồ Tát cửu trụ địa thanh tịnh địa của mình.

***