Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM HAI MƯƠI

PHẨM TAM ĐẠO DIỆT ĐỘ
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng chắp tay, ở trước Đức Phật thưa: Bạch Đức Thế Tôn, Đạo Đức của Đức Như Lai Chí Chân không giới hạn, không nương vào cửa đạo cầu giải thoát, tâm cung kính ưa thích tinh tấn tu học nơi thanh tịnh và pháp Kim Cang tam muội không thể xưng lường. Nay con nghe Như Lai nói diệt độ, thanh tịnh ba đường quy thành một càng không có hai tên cũng không chấp trước hai.

Nếu suy tư như vậy thì cần gì phải cầu đạo vô thượng chí chân?

Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn vì chúng con giảng rõ để tâm của những người khát ngưỡng đạo từ bỏ nhận thức sai lầm.

Khi đó Thế Tôn quay kim thân về bốn hướng, mắt chăm chú nhìn các vị trong hội, thấy chúng hội đều tịch tĩnh vô danh, mỗi người đều không có các niệm, rồi lại nhìn Ngài Tối Thắng bảo: Câu ông hỏi thật tốt lành, thật khó được nghe. Như Lai sẽ vì ông mà giảng rõ để người học đạo ở tương lai vĩnh viễn không còn do dự.

Ngài Tối Thắng bạch Đức Phật: Con ưa muốn nghe.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Gốc đạo thanh tịnh không sanh cành nhánh uế trược. Vì thể tánh thanh tịnh nên các pháp thanh tịnh. Lại nữa, với pháp tánh thanh tịnh phải dần dần phân biện hữu số và vô số.

Vô số tịnh thì đạt được ba đời tịnh. Vì liễu tri ba đời nên quán ba cõi là không. Đó gọi là vi tịnh tam muội. Tối Thắng nên biết, pháp diệt độ của ba đường, phẩm của chúng không đồng, chí hướng mỗi pháp khác nhau.

Thân là gốc cấu uế, niệm là ao cấu uế, tưởng là bụi trần lao, thức là chủ ràng buộc. Diệt một còn ba thì không đạt đến thanh tịnh. Diệt hai còn hai cũng không đạt đến thanh tịnh. Diệt ba còn một cũng không đạt đến thanh tịnh.

Diệt bốn còn lại không mới đạt đến thanh tịnh. Nhất thiết trí thanh tịnh cũng vậy, từ sơ đạo tích lên đến tận quả vô trước, lại từ nhất trụ địa đến Thập Trụ địa đều diệt bốn, trở về bốn quy, bốn ngại.

Thế nào là bốn?

Bốn pháp đó là: Thân là gốc cấu uế, phàm phu đều có. Niệm là ao cấu uế chảy ra bốn dòng phóng dật. Tưởng là bụi trần lao làm khởi lên tám vạn niệm ái. Thức là chủ ràng buộc bó buộc tam hữu.

Vì thế nên Bậc Đại Thánh thị hiện có ba đường dường như có hơn kém nhưng thật ra hóa độ chúng sanh diệt trừ vô số pháp sai biệt, đạo ở Niết Bàn không lìa hư tịch. Niết Bàn của Bồ Tát lấy độ người làm danh.

Niết Bàn của Bích Chi Phật hiện thần túc làm danh. Niết Bàn của Thanh Văn hiện kém hẹp làm danh. Lại nữa, này Tối Thắng, Niết Bàn của Bồ Tát lấy từ, bi, hỷ, hộ xả để giáo dưỡng chúng sanh, lập phương tiện hướng dẫn một người vào đạo, kiểm thúc thân tâm, các căn điều hòa an vui vô cùng an lạc.

Ngay khi đó ý thức được an tĩnh giải thoát, không còn niệm thế gian, các tình thức đều thanh tịnh. Thanh tịnh như Niết Bàn vĩnh tận, nhưng không sở hữu.

Đó gọi là vô niệm, tương ưng với vô sở niệm cũng không thấy niệm, niệm cũng là vô niệm. Người học pháp vô niệm, học cũng như không học. Sắc cũng là vô sắc, cũng không thấy sắc.

Tâm, ý, thức, niệm cũng không suy nghĩ phân biệt. Từ thân năm ấm mới đạt đến vô hình. Pháp thể thanh tịnh không thấy có niệm mà là vô sở niệm.

Tối Thắng nên biết, phàm nói Niết Bàn thì Niết Bàn như vậy chẳng lẽ là xa vời hay sao!?

Chớ quán như vậy!

Vì sao?

Vì thể tánh của pháp vô niệm là vô hình, quán thể tánh đó chính là Niết Bàn. Thể tánh của Niết Bàn chính là pháp quán, là một chứ không phải hai cũng không có sai biệt. Niết Bàn vô danh nên không thể thấy, cũng không thể lập tên gọi Niết Bàn.

Này Tối Thắng, Bồ Tát Đại Sĩ học đạo Niết Bàn thanh tịnh đó thì mới tương ưng với đạo, tương ưng với niệm vô niệm.

Này Tối Thắng, ông lại phải phân biệt, Bồ Tát Đại Sĩ muốn tu hành liễu đạt đạo thanh tịnh, thể tánh của Niết Bàn đó thì phải tu hạnh thanh tịnh.

Thế nào là Bồ Tát tu tập thanh tịnh hạnh của mình?

Đó là luôn làm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, không tỳ vết cấu uế.

Thế nào là thân thanh tịnh không tỳ vết cấu uế?

Khi đó thân Bồ Tát đã thanh tịnh nên ngộ rõ các cảnh ngoài thân cũng thanh tịnh, tự thân hư tịch nên ngộ rõ các thân là không, thân tịch tĩnh thì biết các thân cũng tịch tĩnh, tự thân giải thoát thì các thân cũng như vậy. Bồ Tát lại phải tư duy quán pháp, liễu tri giải đãi cũng là không giải đãi.

Tự thân không kiêu mạn thì đạo chẳng lẽ có kiêu mạn?

Cho nên Bồ Tát ngộ rõ thân không có mạn. Bồ Tát khởi niệm quán pháp ác của thế gian, thấy thân như hình bóng, tiếng vang, không thấy tưởng thanh tịnh, đạt niệm thanh tịnh vô tưởng thì mới tương ưng với Niết Bàn. Đó gọi là đạo Niết Bàn thanh tịnh không sai biệt của Đại Bồ Tát.

Bồ Tát Tối Thắng lại bạch Phật: Thế nào là thể tánh thanh tịnh vô dục, dục mà không dục của Bồ Tát?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Bậc Bồ Tát Đại Sĩ dạo trong năm đường, lưu chuyển trong sanh tử, phương tiện thị hiện đúng thời thích hợp, có khi nói thân thanh tịnh tức luận về vô sanh, thấy sanh tử là không sanh tử, ngộ rõ biết là vô sanh.

Sanh và tử là một chứ không khác cũng không có vô số tên gọi sai biệt. Bồ Tát lại phải phân biệt rõ thân hành, thông đạt vô sanh, thấy sanh tử bình đẳng thì biết thân hành đạt nội ngoại pháp.

Thân hành là gì?

Sự hưng suy của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ không dấu tích, hiện tại là vô ký, tương lai không danh hiệu. Lại nữa, này Tối Thắng, quá khứ vĩnh viễn diệt tận, tương lai thì vô cùng, hiện tại thì đang dời chuyển, Bồ Tát cũng phải tư duy pháp tận và bất tận.

Thế nào là tư duy pháp tận và bất tận?

Khi ấy Bồ Tát phân biệt, thông đạt hoàn toàn tịnh tưởng hư không đều là vô tận, giải thoát vắng lặng không có tưởng niệm. Người có tưởng niệm đối với giới luật Hiền Thánh chính là có sự thiếu sót hơn.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Thuở trước ta thành Phật ngồi dưới cội đạo thọ bảy ngày bảy đêm quán cội cây ấy không rời, tâm nhớ lại hằng sa Chư Phật quá khứ do tự giác ngộ pháp gì nên đạt được pháp gì. Này Tối Thắng, khi ấy ta lại nhớ Chư Phật quá khứ lâu xa về trước thể đạt thân pháp rồi mới đắc quả Tối Chánh Giác.

Nhân duyên hội họp có thức, có tưởng cũng không thấy, chấp đoạn sanh diệt. Như thế, này Tối Thắng, người quán như thế thì gọi là thân pháp. Hễ thân tịnh thì đều quy về biển trí. Tối Thắng nên biết, ý nghĩa của quy về biển, việc ấy có mười nghĩa.

Mười nghĩa ấy là gì?

Một là quy về biển của Phật quán pháp không hình tướng. Quy về biển chúng sanh vượt qua nạn hữu. Quy về biển pháp vì tu tập các trí. Quy về biển phước điền lập giáo vô căn. Quy về biển ấm thị hiện pháp do uế.

Quy về biển trí tuệ phân biệt vô số phương pháp giáo giới. Quy về biển nghĩa căn bổn vì tăng lớn căn lành. Quy về biển trụ tâm liễu tri vô số niệm khởi trong tâm ý chúng sanh, ngộ vô lượng, biết vô ngại. Quy về biển hạnh vì không trái nguyện.

Quy về biển hoằng thệ biết rốt ráo nguồn gốc sanh tử. Này Tối Thắng, đó là ý nghĩa của mười cửa quy về của Đại Bồ Tát, phải nhớ nghĩ tu hành thì đều quy về Pháp Thân vô lậu của Như Lai.

Bồ Tát lại phải quán thân vô lậu của Như Lai không trụ bổn vô, không rơi vào ba cõi, biết rõ bổn vô là một Pháp Thân. Quán thân vô lậu như trụ bổn vô, trụ mà không thấy trụ cũng không có pháp trụ.

Dùng thân vô lậu vào biển sanh tử, thị hiện sắc thân như không có sắc thân, không bờ mé, không hình tướng, không thể thấy được. Sắc thân đã diệt cũng không thấy diệt, cũng không thấy pháp bổn vô của sanh thân như trụ bổn vô.

Thân thanh tịnh của Như Lai cũng không có tỳ về dơ uế, vào chỗ chúng sanh thì tùy theo hình chất của chúng sanh, theo tướng của chúng sanh mà thị hiện, biết rõ sự thanh tịnh của thân chúng sanh.

Tự thân thanh tịnh thì thân chúng sanh thanh tịnh, là một chứ không phải hai cũng không phải nhiều thân. Pháp bổn vô bình đẳng. Pháp bổn vô không có đạo, không thấy có đạo, cũng không có pháp thế gian, pháp hữu lậu hay vô lậu.

Cũng không thấy có giáo giới ba thừa là La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát và Phật Đạo. Cũng không thấy mười phương, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất cộng. Đối với các đạo pháp Hiền Thánh đều không bị chấp trước.

Đó gọi là Bồ Tát thực hành tương ưng với thanh tịnh, tương ưng với vô sở ưng. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ Tát phải nhớ nghĩ tư duy khẩu ngôn thanh tịnh.

Thế nào là lời nói của miệng tương ưng với thanh tịnh?

Lúc đó Bồ Tát nhập hư không giới thanh tịnh tam muội quán khắp ba ngàn Thế Giới, trong đó có loại chúng sanh hữu hình, tất cả hiền hay ngu, thanh bạch hay xấu xa đều quy về không, đều là thanh tịnh. Bồ Tát lại phải tư duy đẳng quán, ở trong pháp đệ nhất nghĩa không thấy bình đẳng cũng không thấy không bình đẳng.

Vì sao?

Vì quán tướng bình đẳng thì không thấy bình đẳng cùng với không bình đẳng, tướng cùng với vô tướng. Bồ Tát lại dùng tướng bình đẳng quán sát các pháp, không thấy đạo pháp là không giới hạn, không thấy pháp thế gian là có giới hạn, không thấy Hiền Thánh siêu việt tam hữu, không thấy sức phàm phu kém hẹp.

Tối Thắng nên biết, Bồ Tát phân biệt âm thanh thanh tịnh, không chấp trước niệm tưởng chúng sanh, khéo quán sát âm thanh, quán rõ là không có tiếng vang. Không thấy buồn vui là thường hay vô thường, vui trong pháp điên đảo hay pháp không điên đảo.

Bồ Tát biết rõ pháp tất cả pháp của chúng sanh đều thanh tịnh, không dục nhiễm cũng không chấp đoạn sanh diệt, không có ba độc căn bổn dâm, nộ, si. Bồ Tát lại phải quán sát mười hai pháp nhân duyên, mười tám pháp bổn trì, từ si đến tử đều là thanh tịnh.

Si cũng không biết hành do ta tạo, hành cũng không biết do si mà hiện hữu. Pháp pháp tự sanh, pháp pháp tự diệt. 

Pháp không thấy pháp thì sao lại có si, hành. Như vậy, này Tối Thắng, pháp không biết pháp, sanh là sanh, diệt là diệt. Pháp không tự biết sanh cùng với vô sanh, diệt cùng với bất diệt cho nên nói là không chấp đoạn sanh diệt.

Khi ấy Bồ Tát Tối Thắng bạch Phật: Bạch Thế Tôn, si, hành ba đời theo thân quay lại, có thân thì có hành sanh theo, không có thân thì hành diệt, cho đến lão, tử cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn Giảng rõ điều nghi này để chúng sanh tương lai vĩnh viễn không còn tâm nghi.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Si không làm nhiễm thân, thân không nhiễm si. Si cũng không thấy ta có thân, thân cũng không thấy ta có si, cả hai đều thanh tịnh, cũng không có ngô ngã nên nói ngã tự nó là hư tịch. Đó gọi là tất cả pháp Bồ Tát là thanh tịnh.

Đã nói là thanh tịnh thì sao lại có lời phải, sao lại có lời quấy?

Lời nói không ở trong cũng không ở bên ngoài, không thấy lời nói có ra, có vào thì sẽ đầy đủ mười nghĩa kiên cố, phân biệt thú hướng chủng ấm của chúng sanh.

Mười nghĩa ấy là gì?

Khi ấy Bồ Tát vì hóa độ chúng sanh nên trước cầu pháp giải thoát, vì tinh tấn không chấp trước nên hiện vô số biến háo, vì dùng nhất thiết pháp không nên hiện lực vô ngại, vì ở trong tất cả pháp được tự tại nên hiện tức ý lực, vì không chuyển nên hiện tâm ý thức hồi chuyển, vì nghĩa vị nên phân biệt, vì hiển bày trí tuệ nên hiện tự tánh pháp lực.

Vì nói pháp cho chúng sanh nên phân biệt nghĩa vị, vì an trụ chánh pháp nên hiện sức vô úy, vì hiển bày tất cả trí vô lượng nên hiện biện tài, vì bất nhị nên hiện lực bất nhị.

Như vậy, này Tối Thắng, Đại Bồ Tát phân biệt thú hướng chủng tánh của chúng sanh không ở trong cũng không ở ngoài không ở trung gian hai cực thì có thể nói Bồ Tát có dục không?

Ngài Tối Thắng thưa: Bạch Thế Tôn, chẳng có.

Đức Phật hỏi:

Có thể nói dục: Dâm, nộ, si là Bồ Tát chăng?

Ngài Tối Thắng thưa: Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

Đức Phật lại hỏi: Nếu không cho dục: Dâm, nộ, si là Bồ Tát thì có thể nói các triền phược cấu uế là Bồ Tát chăng?

Ngài Tối Thắng thưa: Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đại Bồ Tát không chấp trước lời nói cũng không chấp trước không có lời nói. Tất cả các pháp đều chẳng có chấp trước hay không chấp trước. Với mắt, tai, mũi, miệng lưỡi, thân, tâm ý cũng không thấy có chấp trước hay không chấp trước. Âm thanh diễn nói như tiếng gió thổi, do duyên hòa hợp nên mới có âm thanh.

Âm thanh của hiền ngu, xấu đẹp không phải là nhiều, không trụ bên trong cũng không trụ bên ngoài, tìm ở trung gian cũng không thể được.

Đức Phật lại bảo Ngài Tối Thắng: Đại Bồ Tát trụ pháp bổn vô bất động tam muội tư duy niệm động chuyển và việc đã làm của mình đều như hư không bình đẳng, chẳng phải trụ hay không trụ cũng không có các tưởng.

Này Tối Thắng, đó gọi là tất cả tiếng vang từ thanh âm lời nói của chúng sanh đều là không chẳng phải thật, là pháp giả dối không thể nương cậy.

Lúc đó Ngài Tối Thắng bạch Phật: Pháp Thánh Đế của Như Lai đưa đến thành tựu đạo quả Hiền Thánh.

Nếu pháp phương tiện hư giả chẳng phải chân thật thì vì sao nói thành tựu Tối Chánh Giác?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác suy tư đạo pháp chân lý như thật, vì đạt được pháp chân thật nên ngộ biết các pháp chẳng phải chân thật, chẳng phải hiện hữu.

Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ Tát dạo quanh năm đường truyền dạy cho chúng sanh, tùy theo nhân hạnh sẵn có của họ mà độ thoát cho họ, quán sát danh tự, âm thanh của chúng sanh mà chuyển pháp luân vô thượng, theo cú nghĩa pháp khiến họ biết được quả báo ứng, chúng sanh có khổ, có vui nên nói nguồn gốc của khổ.

Bồ Tát vì ngộ rõ các pháp nên lời nói đều là vô ngôn thì có gì là lời nói, lời nói từ đâu xuất, liễu tri lời nói không có chỗ xuất sanh.

Lúc đó Bồ Tát lại vì chúng sanh đang có lạc tập mà nói pháp căn bổn của tập: Tập đó sanh như thế nào, nhân như thế nào, duyên như thế nào. Phân biệt nhân duyên bổn vô, đầu mối của tập, không thấy có tập cũng không thấy có danh tự.

Này Tối Thắng, đó gọi là tất cả âm thanh của chúng sanh đang có lạc tập đều là không, chẳng phải chân thật. Lại nữa, Bồ Tát tùy theo báo ứng thuở xưa của chúng sanh, dùng Đạo Giáo huấn khiến người nghe pháp thực hành thuận theo pháp, cũng không biết hướng của quả báo ứng từ sự thực hành đó.

Bồ Tát lại phải tư duy chúng sanh đang có lạc tập, thông đạt hoàn toàn các pháp không thấy xuất sanh, không dừng trụ nơi ngôn ngữ âm thanh. Khi ngồi hay đi Bồ Tát luôn nhất tâm, tuy ở nơi hoảng loạn mà luôn như ở chỗ an tĩnh.

Nếu ở chỗ đại chúng Hiền Thánh vắng lặng tịch nhiên, ý muốn cất lời nói liền tự dừng lại, suy tư lời nói đó có chấp trước hay không chấp trước. Bồ Tát không thấy tận cùng với không có tận, với tất cả các pháp cũng không thấy tận, vĩnh viễn không xuất hiện dấu tích thanh âm lời nói từ ý chấp đoạn sanh diệt.

Lại nữa, Bồ Tát tư duy về tám hạnh của chúng sanh lạc đạo mà chúng sanh tu tập sẽ hướng đến Niết Bàn. Chánh ngôn, chánh nghiệp cho đến chánh định, các pháp như thế, không phải pháp như thế đều quán như hư không bình đẳng một tướng không hai, không trái nghịch. Đó gọi là khẩu ngôn thanh tịnh, không tỳ vết dơ uế của Đại Bồ Tát.

Lại nữa, Đại Bồ Tát phải nhớ nghĩ tư duy sự thanh tịnh của ý thức.

Vì sao nói ý thức của Bồ Tát thanh tịnh?

Khi đó tâm Bồ Tát thanh tịnh cũng không tỳ vết, tâm bổn vô thanh tịnh không thấy có nguồn gốc. Nguồn gốc của tâm đó không thể nhiễm ô, không thể là tâm tạo tác các nạn.

Vì sao?

Đại Bồ Tát liễu tri tâm vốn tịnh, không thấy có tịnh. Người thế gian nhiều ngu si nhiễm chấp điều đó. Bồ Tát tư duy thể đạt không nên không chấp trước, tu tập phân biệt rốt ráo phương tiện quyền xảo vốn tự thanh tịnh.

Bồ Tát phải biết nguồn cội tâm đó xưa nay không qua lại, không phân biệt cao thấp, tôn ti, quý tiện. không thấy xưa có nay không, không thấy nay có xưa không. Không nhớ nghĩ gốc công đức. Đó gọi là không, gọi là vô sanh, gọi là Niết Bàn.

Đức Phật hỏi: Người nhớ nghĩ gốc công đức đó phải chăng là liễu tri nguồn cội tâm thức?

Ngài Tối Thắng thưa: Chẳng phải.

Đức Phật hỏi: Nội tâm không liễu đạt không thì phải chăng có thể thông đạt pháp ngoại tướng?

Ngài Tối Thắng thưa: Chẳng phải.

Ngài Tối Thắng bạch Phật: Nếu như vậy thì vì sao lại nói là không?

Đức Phật dạy: Tâm vốn là không, chẳng phải là tự ngã cũng chẳng phải không tự ngã, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải chẳng là tâm. Nếu Bồ Tát định tâm quán không thì chẳng tự thấy tâm.

Tự tâm là bổn vô thì ngoại tướng cũng là bổn vô, là một chứ chẳng phải hai, chẳng phải vô số tên gọi sai biệt. Tâm chẳng phải ngã tâm thì vô tâm là tâm. Ngã tâm chẳng phải tâm thì vô ngã là ngã.

Sắc chẳng phải ngã sắc thì vô sắc là sắc, ngã chẳng phải sắc ngã thì vô ngã là ngã. Ngã tâm, ngã sắc chẳng phải là ngã tâm, ngã sắc. Sắc chẳng phải ngã sắc thì vô sắc là sắc, ngã chẳng phải sắc ngã thì vô ngã là ngã.

Ngã tâm, ngã sắc chẳng phải là ngã tâm, ngã sắc. Sắc ngã, tâm ngã chẳng phải là sắc ngã, tâm ngã. Cho đến thanh, hương, vị, xúc tế hoạt, ý, pháp chẳng phải là ngã ý, ngã pháp cũng chẳng phải là ý ngã, pháp ngã.

Vì sao?

Tâm vốn không thì ngoại tướng cũng không. Do biết ngoại tướng không nên thông đạt hoàn toàn các pháp cũng như không, là một mà không phải hai, không có vô số hình tướng. Tất cả các pháp cũng như vậy, không thấy xưa có nay không, cũng không thấy nay có xưa không.

Vô cũng không phải là vô, hữu cũng không phải là hữu. Hữu không biết do đâu có hữu. Vô không biết do đâu có vô. Không có vô nên tự thể luôn là vô. Có hữu nên tự thể luôn là hữu. Hữu không sanh ra hữu, vô không sanh ra vô.

không có vô nên tự thể không là vô, có hữu nên tự thể không là hữu. Hữu không biết vô, vô không biết hữu. Tất cả âm thanh đều là không, chẳng phải chân thật. Đó gọi là tâm Bồ Tát thanh tịnh.

Tâm thanh tịnh đó không thể chìm đắm trong ba mươi pháp sáu nhiễm ô, vĩnh viễn không chấp trước sự cấu uế xưa nay của tâm Đại Bồ Tát. Lại dùng quyền phương tiện khéo léo thông đạt bổn vô nên tự tịnh cũng không ở nơi thanh tịnh khởi tưởng chấp trước nên liễu tri pháp không hoàn toàn thanh tịnh.

Bậc nhập định ý tự tại tam muội thì có thể trở lại trú xứ trong sanh tử, qua lại năm đường vun trồng các gốc công đức. Người có gốc công đức biết tâm, ý, thức là không có tâm, ý, thức. Lại dùng bổn tâm thương xót đến tất cả, thức biết rõ chúng sanh là không, là vô sở hữu.

Ngã, nhân, thọ mạng hoàn toàn thanh tịnh. Bồ Tát lại dùng gốc công đức ban đều cho tất cả khiến chúng sanh loại tinh tấn tu tập đạo. Chúng sanh và đạo bình đẳng không hai. Người quán như thế thì gọi là bổn mạt thanh tịnh. Bồ Tát lại dùng thanh tịnh bình đẳng quán dâm, nộ, si tức là đạo.

Đạo thanh tịnh: si thanh tịnh. Hai pháp đó là một chứ không phải hai, cũng không phải nhiều. Bồ Tát quán bổn mạt tự thể là tịnh, không chấp trước các uế trược.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Thân hành thanh tịnh nên không làm ác. Miệng nói lời thanh tịnh luôn quy về chí thành. Ý niệm thanh tịnh từ bi với tất cả. Các hạnh đầy đủ mới xưng là Bồ Tát.

Khi Thế Tôn nói phẩm bổn vô thanh tịnh này xong, năm ngàn vị Bồ Tát đều được nhất sanh bổ xứ, vô số ngàn người đều phát đạo ý bình đẳng vô thượng.

***