Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

PHẨM ĐẠO TRÍ
 

Bấy giờ trăm ức chúng sanh ngồi trên tòa và các Bồ Tát, người trong đại hội cùng Trời, Rồng, Thích, Phạm Tứ Vương, Chư Thiên của các Cõi Trời Đâu Thuật, Diễm Thiên, Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại cho đến Chư Thiên Cõi Trời Nhất Cứu Cánh, mỗi vị đều nghi hoặc: Chúng ta muốn được nghe giảng nói về pháp thâm yếu của đạo chí chân, nhưng là đạo vô tướng nên không thể thấy.

Vậy sao Như Lai nói có đạo?

Khi ấy Thế Tôn biết tâm niệm của các vị trong hội, liền bảo Bồ Tát Tối Thắng: Các ông muốn được nghe Như Lai giảng nói về pháp thâm yếu của đạo chí chân vi diệu không?

Ngài Tối Thắng thưa: Đúng như vậy. Bạch Thế Tôn, chúng con vui muốn nghe.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng và các Đại Bồ Tát cùng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A Tu Luân, Chiên Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân và Phi Nhân: Nên ngộ rõ đạo là không dấu tích, vắng lặng, không tên gọi. Này Tối Thắng, giả sử đạo có chỗ trụ thì Đại Bồ Tát không ở trong pháp bình đẳng thành bậc Tối Chánh Giác. Do biết được quả ấy không chỗ trụ nên Đại Bồ Tát thành tựu Đẳng Chánh Giác.

Đức Phật lại bảo Ngài Tối Thắng: Đạo trí định ý của Bồ Tát có mười pháp.

Mười pháp đó là gì?

Không tạo thân hành cũng không bị chấp trước. Không tạo khẩu hành cũng không bị chấp trước. Không tạo ý hành cũng không bị chấp trước. Đến cảnh giới Phật không khởi tưởng Phật. Giáo hóa chúng sanh đạt được trí vô ngại. Đều độ cho chúng sanh mê mờ hiểu rõ đạo và vô đạo.

Lại độ cho chúng sanh thành tựu Tối Chánh Giác. Phóng ánh sáng lớn chiếu khắp nơi, trong mỗi ánh sáng có vô lượng đức hóa Phật, mỗi Đức Hóa Phật diễn nói sáu pháp Ba la mật vô cùng sâu xa. Luôn chuyển pháp luân phát bồ đề tâm.

Ngộ rõ ngã, vô ngã cũng không có thọ mạng. Thân tâm tự nhiên mới gọi là đạo. Tự nhiên đó là ngộ rõ đạo vô trí cũng không có trí.

Giác ngộ và pháp vô sở giác đều không thấy có giác ngộ. Nói ngô là đạo thì cũng không thấy ngô. Nói ngã là đạo thì cũng không thấy ngã. Ngã, nhân, thọ mạng cũng như vậy. Tất cả chúng sanh cũng không có hình tượng.

Khi đó Bồ Tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: Nếu nói đạo không hình tướng nên không thể thấy thì như hiện nay vì sao lại chuyển pháp luân, diễn nói pháp chứng đắc bốn đạo quả là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán và pháp Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật Quả?

Vì sao nói pháp năm ấm rồi lại nói pháp bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám đạo Hiền Thánh?

Vì sao nói làm thanh tịnh Cõi Phật Giáo hóa chúng sanh, từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác trí tuệ phân biệt sáu thức cánh lạc xúc?

Vì sao lại nói pháp bốn đẳng tâm, sáu pháp Ba la mật, pháp tánh chân như, các pháp này đều có tên gọi là đạo?

Bấy giờ Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Theo lời ông hỏi, Đại Bồ Tát ngộ rõ trí tuệ của Phật với năm phần pháp thân và bao nhiêu pháp phương tiện khéo léo đều không thấy động chuyển. Thấy động chuyển thì chẳng phải là nghĩa của đạo. Xa rời tất cả pháp nương trụ, suy tìm pháp giới đó thì cũng không có pháp giới.

Vì pháp vốn thanh tịnh nên phương tiện chuyển pháp luân. Ngộ rõ, không chấp trước tất cả pháp cho nên, này Tối Thắng, các Đại Bồ Tát với tất cả pháp đều không có tâm chấp trước, không thấy sanh cũng không thấy diệt. Cõi Phật thanh tịnh nên chúng sanh cũng thanh tịnh.

Hiển bày vô lượng trí tuệ quang minh cho nên Đại Bồ Tát lập hạnh tương ưng với pháp tổng trì, tâm không thoái chuyển, lên Bồ Tát vị, hoặc nhập định ý chánh thọ giáo hóa chúng sanh làm thanh tịnh cõi nước Phật. Vì tâm chuyên nhất tu tập nhẫn không có vô số đạo nên không nói pháp trí, chỉ tạm gọi là trí.

Bồ Tát Đại Sĩ phải nhớ nghĩ tu hành hóa độ những người chưa giác ngộ nhưng đều không có thức tưởng.

Này Tối Thắng, đó gọi là thể nhập tâm định chuyên nhất, đạo trí thanh tịnh, tất cả trí đều không có trần lao, điều phục người chưa được điều phục mà không suy tính khổ vui, là thường hay vô thường, là tốt hay xấu.

Bậc có trí tuệ không loạn đều không có tưởng chấp trước mong cầu đầy đủ Phật tạng ở mười phương. Với các pháp tứ vô sở úy, tứ phân biệt tuệ, đại từ, đại bi, pháp tánh chân như đều không sở hữu, đều là pháp rỗng không, đều là pháp vắng lặng.

Bồ Tát vì phân biệt báo ứng, đạo trí chí thành, không khởi tưởng diệt nên gọi là không, vô tướng, vô nguyện. Cũng không có pháp sanh.

Này Tối Thắng, vì vậy nên pháp thâm yếu của đạo chí chân của Đại Bồ Tát, nếu luận về đạo thì tức là cõi hư không. Do vậy nên đạo tức là không, không tức là đạo, là một chứ không phải hai cũng không phải vô số.

Lúc ấy Bồ Tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: Lành thay! Lành thay! Vui thay được nghe pháp Thế Tôn Giảng.

Khi đó Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền Đạp Hòa, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chiên Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân và Phi Nhân ở trong hội, tâm tự nghĩ: Hôm nay Như Lai vì chúng hội tuyên nói pháp đạo trí không gì sánh bằng, chúng sanh tuy theo chí hướng tu tập của mình đều được mãn nguyện.

Vị Bồ Tát Tối Thắng kia khi sẽ sẽ thành tựu đạo Vô Thượng Tối Chánh Giác?

Đức Phật biết tâm niệm của Chư Thiên, Long, Thần… liền bảo bốn bộ chúng: Vị Bồ Tát Tối Thắng này sau vô số ba trăm ba mươi A tăng kỳ kiếp sẽ thành Phật Hiệu là Minh Tuệ Chí chân Như Lai Đẳng Chánh Giác. Thế Giới tên là Vô Lượng.

Kiếp tên là Thanh Tịnh. Chúng đệ tử theo Đức Phật Như Lai đó có chín ngàn chín trăm chín mươi hai ức vị, thọ một trăm hai mươi tiêu kiếp. Lúc ấy chúng hội nghe Đức Phật thọ ký cho Bồ Tát Tối Thắng, mỗi người tự phát nguyện ưa muốn được sanh về Thế Giới của Đức Phật ấy.

Đức Phật liền bảo: Theo tâm nguyện của các ông chắc chắn sẽ sanh về cõi đó không nghi.

Đức Phật lại bảo Ngài Tối Thắng: Nay chúng trong hội này phần nhiều là Chư Thiên Cõi Đao Lợi thường cùng A Tu Luân giao tranh. Có khi Chư Thiên thắng, A Tu Luân bại. Có khi A Lu Tuân thắng, Chư Thiên bại. Hai bên giao tranh, mỗi bên đều bị tâm oán hận buộc ràng, mỗi bên đều có tâm giận dữ độc hại mà không thể lìa bỏ.

Ngài Tối Thắng thưa: Kính mong Đấng Thiên Tôn dùng quyền phương tiện nói pháp đạo trí hư không cho họ để Chư Thiên nhân và A Tu Luân, mỗi bên đều hòa hợp khởi tâm từ bi.

Khi ấy Thế Tôn bảo các vị trong hội: Đạo là vô hình nên cũng không thể thấy. Ba độc căn bản vĩnh viễn không có khởi đầu kết thúc. Ở thế gian tu tập đạo chỉ có tín là mạnh mẽ. Người tu tập tâm từ thì thiện thần hộ vệ, Chư Phật mười phương đều khen ngợi.

Đời này, đời sau tích đức vô lượng. Các loại chúng sanh có hình tướng bò, bay, máy, cựa trong Cõi Diêm Phù Lợi này đều phải quy về pháp diệt tận. Sanh mạng như điện chớp cũng như ngựa hoang, ảnh trong gương, chùm bọt trên mặt nước, hội họp thì có chia ly, sanh chắc chắn phải có chết.

Các vị dã nhận lãnh thân hình thì không tránh được nạn đó. Tuy thọ thân mạng Trời nhưng vẫn ở trong tam đồ, cần phải tự cẩn thận cầu mong lìa khỏi đường ấy.

Các vị hãy lắng nghe nhận lãnh lời Ta dạy! Bấy giờ bốn bộ chúng im lặng vui mừng, mỗi vị đều tự khởi tâm cung kính muốn nghe Như Lai dạy đạo pháp.

Lúc ấy Thế Tôn bảo bốn bộ chúng: Các ông hãy khéo lắng nghe! Khéo tư duy! Đại Bồ Tát phải nhớ nghĩ tư duy tám pháp môn giải thoát.

Tám pháp môn đó là gì?

Các vị thiện nam, thiện nữ tôn trọng giữ gìn giới luật không thiếu sót, phòng hộ thân, khẩu, ý.

Thực hành bốn tâm bình đẳng: Từ, bi, hỷ, hộ xả, luôn nhớ nghĩ theo gần gũi thiện tri thức, kính tin Tam Bảo, chí luôn nhớ nghĩ cầu đạo vô thượng, đem chánh pháp đã được nghe giảng nói cho người, Đạo Giáo đã giảng thì không nói pháp tiểu thừa, khuyên chúng sanh tinh tấn tu hành đạo lớn.

Có khi Bồ Tát diễn nói pháp đại thừa bình đẳng không hai, không thấy có người nhận lãnh giáo pháp. Cũng như hư không không có hình tượng, giáo pháp mà Chư Phật đã truyền dạy không thê nghĩ bàn, bao trùm vạn hạnh, không sót pháp nào.

Hoặc nói hạnh không vắng lặng, không không hư giả, hoặc nói năm phần Pháp Thân. Ví như một người có ngọc Ma Ni Như ý ở trong đại chúng theo ý muốn dùng oai đức của ngọc biến thành các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng làm cho người trong chúng có màu sắc như vậy.

Đại Bồ Tát cũng như thế, tùy theo ý niệm suy nghĩ trong tâm của mọi người liền diễn nói pháp đạo trí vô cùng khiến cho mỗi người đều hoan hỷ, chí tôn sùng Phật Đạo, cuối cùng mới chỉ bày rõ pháp môn trí tuệ, làm lợi ích chúng sanh khiến họ phát tâm đạo đại thừa.

Bồ Tát phát tâm hoằng thệ như vậy, tế độ chúng sanh mà không thấy độ. Cũng như hư không qua lại vô ngại, Bồ Tát phát tâm độ người cũng thế, cũng không thấy có chúng sanh được độ.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Sau khi ông Bát Niết Bàn, tất cả chúng sanh suốt trong mười hai trung kiếp đều sẽ đến để phụng thờ cúng dường Xá Lợi. Người không có nhân duyên thì tạo nhân duyên, người chưa được cứu hộ thì được cứu hộ, người không được che chở thì được che chở.

Khi ấy nhân dân đều sẽ cúng dường hương hoa, trổi kỹ nhạc, cúi đầu tự quy mạng. Mỗi viên Xá Lợi đều phóng ánh sáng, biến hóa thần đức khiến người trông thấy hoan hỷ. Đó đều do phát hoằng thệ nguyện nên mới được sức oai thần biến hóa thù thắng như Phật.

Ánh sáng ấy vòi vọi, cao xa chiếu khắp mọi nơi, hiện bày ánh sáng trí tuệ vô lượng, làm nhân duyên khởi phát tâm đạo Vô Thượng. Trong số chúng sanh đó, người phát tâm sai lầm hoặc thành tựu pháp Thanh Văn, Duyên Giác hoặc sanh lên Cõi Trời hay được thân người.

Xá Lợi phân bố khắp tám phương và hai phương trên, dưới. Trời, Rồng, Kiền Đạp Hòa, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chiên Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân và Phi Nhân cùng các loài hữu hình bò, đi, hít thở đều sẽ cúng dường năm loại nhạc vui tươi.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng:

Khi ông thành Phật, đất đều màu hoàng kim đầy đủ bảy báu: vàng, bạc, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Hoặc có chúng sanh muốn được cúng dường toàn thân Xá Lợi liền được như ý nguyện. Ngàn, vạn, ức toàn thân Xá Lợi hiện khắp thế gian. Kinh Pháp lưu truyền khắp suốt mười bảy trung kiếp.

Bấy giờ, trên tòa có một Bồ Tát tên Vô Lượng Giác Tuệ, tâm tự nghĩ: Bồ Tát Tối Thắng để lại thân Xá Lợi, phân bố khắp thế gian khiến chúng sanh phát khởi đạo tâm, độ bao nhiêu người?

Có bao nhiêu người nghe theo?

Đức Phật biết ý niệm trong tâm vị Bồ Tát ấy bèn bảo vị ấy: Dừng lại! Này Hiền sĩ, chớ có nói lời đó. Chớ dùng trí tuệ hạn lượng của mình để đo lường trí tuệ tam muội định ý vô ngại của Như Lai. Ánh sáng của Xá Lợi tiếp độ chúng sanh chẳng phải tâm có thể đo lường được, chẳng phải ý có thể quán sát được.

Đạo trí thần đức của Như Lai là tự tại. Lại nữa, pháp phương tiện thị hiện biến hóa của Chư Phật chẳng phải là pháp hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật đạt được. Đại Bồ Tát đắc Tịch định tam muội đều không ốc tưởng xa gần chấp trước định ý.

Khắp nơi ở mười phương Cõi nước, huyện ấp, cung điện Chư Thiên, cung điện Long Vương, cung điện của các tôn thần, ở trong quân binh, nơi đồng trống, trên Cõi Trời, năm đường qua lại, mỗi nơi đều thị hiện toàn thân Xá Lợi.

Mỗi thân Xá Lợi đều phát ra ánh sáng sáu pháp Ba la mật giải thoát vô tỷ. Pháp không, vô tướng, vô nguyện. Đại từ, đại bi, pháp bốn ân, pháp trí tuệ sáng phân biệt hư tịch, diễn đạt tâm định, cúng dường Xá Lợi, pháp bình đẳng không hai, tâm thí kiên cố không tăng giảm. Đó gọi là Đại Bồ Tát nhập Tịch ý định tâm tam muội thì có thể phân biệt sáu tình trong ngoài.

Vì sao gọi là sáu tình?

Sáu tình đó là: Nếu mắt thấy sắc không khởi tưởng sắc, ngộ rõ sắc là vật bên ngoài. Nếu khởi nhãn thức thì sẽ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao.

Bảy mươi bốn pháp đó là gì?

Mười lăm pháp thuộc dục thức, mười lăm pháp thuộc sắc thức, mười lăm pháp thuộc hữu tưởng vô tưởng thức, mười lăm pháp thuộc sanh ấm, mười bốn pháp thuộc trung ấm.

Đức Phật bảo vị Đại Bồ Tát: Ở trong nhãn thức khởi các trần lao đó thì nhãn thức khởi.

Lại nữa, này Đại Bồ Tát, các vị tộc tánh nam nữ, nếu tai nghe tiếng mà không khởi họa của tai, ngộ rõ âm thanh là vật bên ngoài, nếu khởi nhĩ thức thì sẽ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao: Mười lăm pháp thuộc dục nhĩ thức, mười lăm pháp thuộc sắc nhĩ thức, mười pháp thuộc hữu tưởng vô thức thức, ba mươi chín pháp thuộc trung ấm và thọ hình ấm.

Đức Phật lại bảo vị Đại Bồ Tát: Ở trong nhĩ thức khởi các trần lao đó thì nhĩ thức khởi.

Lại nữa, này Đại Bồ Tát, nếu mũi ngửi hương không khởi tỷ thức, ngộ rõ hương là vật bên ngoài, nếu khởi tỷ thức thì sơ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao: Mười lăm pháp thuộc Dục Giới tỷ thức, mười lăm pháp thuộc Sắc Giới, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu Tưởng Vô Tưởng, Tứ Không Định.

Đức Phật lại bảo vị Đại Bồ Tát: Nếu vị Tộc tánh nam hay nữ khởi thiệt thức biết vị mà khởi họa hoạn của lưỡi, ở trong đó phân biệt đều là vô chủ, đều ở trong dục, đều ở trong thức thì có thể khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao.

Bảy mươi bốn pháp đó là gì?

Mười lăm pháp thuộc Dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng… cho đến trung ấm.

Đại Bồ Tát lại phải tư duy pháp khởi diệt, các pháp thô tế trần lao do thân xúc chạm pháp bên ngoài làm phát sinh cảm xúc, phân biệt mỗi pháp đều vô sở hữu thì ở trong cảm xúc đó khởi thân thức, chính là khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao.

Bảy mươi bốn pháp đó là gì?

Bảy mươi bốn pháp đó là mười lăm pháp thuộc dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng… cho đến trung ấm. Đại Bồ Tát lại phải tư duy sự hành hoạt của ý pháp. Pháp sanh thì sanh, pháp diệt thì diệt cũng không thấy sanh, cũng không thấy diệt.

Người ngu hoặc ở trong đó khởi tưởng ý thức thì sanh khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao.

Bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao ấy là gì?

Mười lăm pháp thuộc dục, mười lăm pháp thuộc sắc, bốn mươi bốn pháp thuộc hữu tưởng vô tưởng và trung ấm.

Đức Phật bảo vị Đại Bồ Tát: Thế nào là đạo trí?

Đạo trí của Bồ Tát với Dục Giới thấy rõ mười lăm pháp.

Mười lăm pháp đó gồm:

Quán thế gian có bảy loại:

Một là phỉ báng đạo.

Hai là tin tưởng lời dạy.

Ba là nhận lãnh giáo pháp.

Bốn là với chân lý có tâm thoái chuyển.

Năm là được quả báo thì tâm do dự.

Sáu là ý tinh tấn nhưng thân ngăn ngại.

Bảy là mắt nhìn nhưng tâm không nương tựa vào pháp đã thấy.

Pháp tạng thâm sâu của Phật có tám việc.

Tám việc ấy là gì?

Một là Phật Pháp không hình tượng nhưng giả đặt có pháp trụ.

Hai là hiện tại không trụ niệm chấp trước thường tồn.

Ba là quá khứ mãi diệt không thấy lời thệ nguyện.

Bốn là tương lai chưa đến nhưng ngôn giáo không sanh diệt.

Năm là do duyên khổ đưa đến họa, tự nhận lấy đối tượng do duyên ấy đưa lại.

Sáu là tu tập thực hành phương tiện, chưa diệt tận mà nói là diệt tận.

Bảy là kiến đạo rồi xả đạo, từ xưa đến nay luôn tinh tấn chuyên nhất.

Tám là Phật Pháp không hai nhưng tâm ý Tham Thiền có sai biệt.

Đó gọi là đạo trí của Đại Bồ Tát với Dục Giới quán rõ mười lăm hạnh trần lao.

Thế nào là mười lăm hạnh trần lao thuộc Sắc Giới?

Mười lăm pháp đó:

Một là ân thấm nhuần.

Hai là tâm không dao động.

Ba là chấp trước thú vui Cõi Trời.

Bốn là quên tội phước.

Năm là chấp cho là vĩnh cửu.

Sáu là không đau ốm.

Bảy là ở nơi chân chánh.

Tám là thực hành bình đẳng.

Chín là pháp nhẫn bất khởi.

Mười là đạo không biến đổi.

Mười một là tưởng đầy đủ.

Mười hai là chấp trước sắc.

Mười ba là tự tại.

Mười bốn là chiếu xa.

Mười lăm là Yết Ma.

Đó là mười lăm hạnh trần lao mà Đại Bồ Tát khi đến Cõi Trời thuộc Sắc Giới phải nhớ nghĩ tránh xa.

Thế nào là Đại Bồ Tát với Cõi Hữu Tưởng Vô Tưởng và trung ấm xa lìa bốn mươi bốn hạnh trần lao?

Khi ấy Bồ Tát nhập thần thông định ý vô hình tam muội, qua lại trong đó phân biệt bốn mươi bốn hạnh trần lao.

Bốn mươi bốn hạnh đó là gì?

Khi đó Bồ Tát nói và phân biệt hạnh:

Một là chấp thức ngã là vô bổn.

Hai là chấp vô hình, xả bỏ hình sắc.

Ba là chấp thọ báo ứng có thống khổ.

Bốn là tưởng không kiên cố.

Năm là từ bỏ, không thực hành bổn mạt.

Sáu là không có trí tuệ nương tựa không.

Bảy là dừng bỏ tâm định vắng lặng.

Tám là không có tưởng tri diệt.

Chín là chấp thức hiện tại không loạn.

Mười là ý vọng, ý không chân chánh.

Mười một là ý cũng không trụ hiện tại.

Mười hai là thức không trụ nơi đạo.

Mười ba là ý cũng không trụ nơi pháp thế gian.

Mười bốn là chấp tánh không như thị.

Mười lăm là chỉ nghe tiếng, không thấy hình.

Mười sáu là nghĩ đạo là vô tận.

Mười bảy là chấp mọi pháp là không, không có pháp nào khác.

Mười tám là chấp Niết Bàn thanh tịnh.

Mười chín là chấp cho rằng đã giác ngộ hoàn toàn đạo đưa đến tịch tĩnh.

Hai mươi là tâm si mê chấp ân thấm nhuần.

Hai mươi mốt là chấp vẫn còn thân trung ấm.

Hai mươi hai là thấy có nhận lãnh thân trung ấm.

Hai mươi ba là chấp thân trung ấm qua lại.

Hai mươi bốn là chấp biết thân trung ấm từ đâu lại.

Hai mươi lăm là chấp thấy chúng sanh có thân trung ấm quan lại.

Hai mươi sáu là chấp thấy thân trung ấm có sanh, có diệt.

Hai mươi bảy là chấp tự thấy thân cảm thọ cảnh giới địa ngục.

Hai mươi tám là chấp thân có nhận lãnh tội, thân không nhận lãnh tội.

Hai mươi chín là thấy thọ thân Thiên ấm, có vị thọ phước, có vị không thọ phước.

Ba mươi là thấy thọ thân nhân ấm, có người thọ phước, có người không thọ phước.

Ba mươi mốt là thấy thọ thân trung ấm ngạ quỷ có loài cao, có loài thấp.

Ba mươi hai là thấy thọ thân súc sanh ấm có loài nặng, có loài nhẹ.

Ba mươi ba là có chúng sanh từ thân Thiên ấm trở lại thân Thiên ấm là do khi chết thức không loạn.

Ba mươi bốn là có chúng sanh từ thân Thiên ấm sanh vào thân nhân ấm là do thức của họ tuy mạnh mẽ nhưng không có trí tuệ.

Ba mươi lăm là có chúng sanh từ thân Thiên ấm nhận lãnh thân súc sanh ấm là do thức yếu ớt, ý khởi loạn tưởng.

Ba mươi sáu là có chúng sanh từ thân Trời thọ thân ngạ quỷ ấm là do khi chết ý tham lam không chán.

Ba mươi bảy là có chúng sanh từ thân Trời thọ thân địa ngục ấm là do thức có tưởng thệ nguyện phỉ báng Hiền Thánh.

Ba mươi tám là có chúng sanh từ thân Nhân ấm trở lại thọ thân Thiên ấm là do tu tập pháp cấm giới thanh tịnh.

Ba mươi chín là có chúng sanh từ thân người nhận lãnh thân súc sanh ấm là do tu tập tâm ý không chuyên nhất.

Bốn mươi là có chúng sanh từ thân Nhân ấm thọ thân ngạ quỷ ấm do chấp rằng chỉ một mình tu thiện là tốt, không chịu phổ biến cho người.

Bốn mươi mốt là có người từ thân Nhân ấm thọ thân địa ngục ấm, trước nhận phước sau lãnh họa.

Bốn mươi hai là có người từ thân súc sanh ấm thọ thân Thiên Nhân ấm là do đã tạo phước rồi nhưng không tiếp tục tạo phước mới.

Bốn mươi ba là có người từ thân súc sanh thọ thân ngạ quỷ ấm và thân địa ngục ấm là do tám tội Vô Gián không thể cứu.

Bốn mươi bốn là chấp có thân ấm hiện hữu, thân ấm lãnh thọ, thân và thần thức không loạn.

Đó là bốn mươi bốn họa hoạn trần lao thuộc hữu tưởng vô tưởng và trung ấm của Đại Bồ Tát.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đại Bồ Tát lại phải tư duy về thần thức trung ấm hư không, hoặc từ không thức sanh thức ấm, hoặc từ Thức ấm thọ bất dụng xứ ấm, hoặc từ Bất dụng xứ ấm thọ Vô sắc Thiên ấm, từ Vô Sắc Thiên ấm thọ Lục Thiên Âm, cho đến Cứu Cánh Thiên.

Từ Cứu Cánh Thiên lại thọ Sắc vô sắc thiên ấm. Người thọ thân Thiên ấm, thân hình cao một nhận rưỡi, tìm chỗ để đi chứ không trụ trong thân đó. Người thọ thân Nhân ấm, thân hình cao ba khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là trong bảy ngày, hoặc sáu ngày, năm, bốn, ba, hai, một ngày.

Người thọ thân súc sanh ấm, chậm nhất là ba ngày rưỡi hoặc hai ngày hay một ngày rưỡi. Người thọ thân ngạ quỷ ấm chậm nhất là khoảng thời gian nửa bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay.

Người thọ thân địa ngục ấm, thân cao ba nhận rưỡi, hoặc có kẻ sanh ra chưa đủ bảy ngày liền chết rồi, sanh đến thân đó. Đại Bồ Tát đều theo người mà giáo hóa, vì họ mà nói pháp vi diệu. Người có tâm mau ngộ thì không thọ các thân trung gian mà đắc đạo.

Súc Sanh thọ thân Nhân ấm, thân cao hai khuỷu tay rưỡi chậm nhất là trải qua bốn ngày, ba, hai, một ngày.

Súc Sanh thọ thân Thiên ấm, thân hình cao ba nhận rưỡi, chậm nhất là một ngày rưỡi, hoặc một ngày, nửa ngày.

Hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Súc sanh thọ thân ngạ quỷ ấm, thân cao bảy nhận. Có loại xuất sanh chậm nhất là năm ngày, hoặc bốn, ba, hai, một ngày.

Súc sanh thọ thân địa ngục ấm, thân cao một nhận rưỡi, chậm nhất là trong khoảng thời gian nửa bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Ngạ quỷ thọ thân Thiên ấm, thân hình cao nửa nhận, chậm nhất là trải qua một ngày, hoặc nửa ngày, hoặc khoảng thời gian một bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay.

Ngạ quỷ thọ thân nhân ấm, thân cao hai khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là bốn ngày rưỡi, hoặc ba, hai, một ngày. Ngạ quỷ thọ thân súc sanh ấm, thân cao bốn nhận rưỡi, chậm nhất là mười lăm ngày, mười bốn, mười ba, mười hai, mười một ngày, mười ngày, chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày.

Ngạ Quỷ thọ thân địa ngục ấm, thân cao năm nhận rưỡi, chậm nhất là chín mươi ngày, hoặc có loài xuất sanh trong tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày cũng như vậy.

Lại nữa, Đại Bồ Tát lại phải quán sát như vậy, chúng sanh địa ngục thọ thân Thiên ấm kia thân cao bốn nhận rưỡi, chậm nhất là trải qua năm tháng, bốn, ba, hai, một tháng. Nếu thân địa ngục ấm thọ thân trung ấm cõi người thì thân cao hai khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là trải qua ba tháng, hai, một tháng.

Địa ngục thọ thân súc sanh ấm, thân cao tám khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là ba tháng rưỡi, hai, một tháng cũng như vậy. Địa ngục thọ thân ngạ quỷ ấm, thân cao chín nhận, chậm nhất là trải qua ba ngày.

Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Nhân ấm, giữa chừng chưa tới nơi thì trở lại thọ thân Thiên ấm, loại thân đó lợi căn không trải qua khổ.

Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân súc sanh ấm, đột nhiên lại sanh vào thân trung ấm cõi người, loại thân đó không hủy giới độ. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân ngạ quỷ ấm, đột nhiên lại sanh vào thân súc sanh ấm, loại thân đó vâng theo tu tập pháp đảnh nhẫn.

Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân địa ngục ấm, đột nhiên lại ở trong thân ngạ quỷ ấm, loại thân đó quả báo đã thành thục sẽ sanh vào cõi người. Hoặc có thân Nhân ấm thọ sanh vào thân ngạ quỷ ấm, chúng sanh đó đột nhiên lại ở trong thân Thiên ấm.

Loại thân đó có là do tâm định không loạn. Hoặc có chúng sanh phải thọ thân ấm trong ba đường ác đột nhiên lại thọ thân ấm trong cõi người, Cõi Trời. Loại thân đó có trí tuệ thông tỏ do tâm, tu quảng bác.

Hoặc có chúng sanh phải thọ thân trung ấm ở Cõi Nhất Cứu Cánh Thiên, đột nhiên lại hiện thân ở thân trung ấm Cõi Trời Quang Âm. Loại thân này là do tâm ý chuyên nhất.

Hoặc có chúng sanh phải thọ thân trung ấm ở Cõi Biến Tịnh Thiên, đột nhiên lại hiện ngay thân trung ấm ở Cõi Hữu Tưởng Vô Tưởng. Loại thân này là do có trí tuệ không đạt.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đại Bồ Tát ngồi dưới cội đạo thọ dùng nhất thiết trí vô ngại, Đẳng trí, Chấp Lục Thông trí, Biện tài tuệ trí, Liễu âm hưởng trí, Vô thối chuyển trí quán khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới ai thọ hình, ai không thọ hình, ai thọ thân trung ấm, ai không thọ thân trung ấm.

Có bao nhiêu chúng sanh ở cõi người, có bao nhiêu chúng sanh ở trong thân trung ấm cõi người. Bồ Tát lại quán thân Nhân ấm của chúng sanh thọ thân Tứ Đại ấm, số bao nhiêu đều biết tất cả.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đại Bồ Tát quán chúng sanh Cõi Trời ở trong thân trung ấm Cõi Trời, lại quán số chúng sanh Cõi Trời có hướng đi vào bốn đường bao nhiêu đều biết tất cả. Có khi Đại Bồ Tát dùng sáu pháp thần thông, trí không thoái chuyển quán chúng sanh thọ thân súc sanh.

Có bao nhiêu chúng sanh thọ thân trung ấm ở súc sanh chuyển sang thọ thân trung ấm trong bốn đường, số bao nhiêu đều biết tất cả. Bồ Tát lại quán chúng sanh thọ thân ngạ quỷ. Có bao nhiêu chúng sanh ở thân trung ấm ngạ quỷ phải thọ thân ở bốn đường đều biết tất cả.

Có khi Đại Bồ Tát quán chúng sanh thọ thân địa ngục. Có bao nhiêu chúng sanh thọ thân trung ấm ở địa ngục hướng sanh vào bốn đường đều biết tất cả.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đại Bồ Tát dùng trí bất thoái chuyển quán khắp thân trung ấm của năm đường, có thọ hình hay không có thọ hình. Hoặc có thân ấm trụ tại cõi người đột nhiên lại hiện sanh thân Thiên ấm, ở trong Thiên ấm liền thủ diệt độ, cuối cùng không thọ thân Trời, thân người.

Hoặc có thân ấm trụ tại Cõi Trời đột nhiên lại hiện sanh thân nhân ấm rồi thủ diệt độ, không thọ thân Trời, thân người. Hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi súc sanh, thân trung ấm ở cõi súc sanh đột nhiên lại hiện sanh thân trung ấm cõi người, ở thân trung ấm cõi người liền thủ diệt độ, không thọ thân người hay súc sanh.

Hoặc có thân trung ấm trụ ở cõi súc sanh, thân trung ấm ở cõi súc sanh ấy đột nhiên lại hiện sanh thân trung ấm Cõi Trời, ở thân trung ấm Cõi Trời bèn thủ diệt độ, không thọ thân Trời hay súc sanh.

Hoặc có thân trung ấm trụ ở cõi ngạ quỷ, thân trung ấm ở cõi ngạ quỷ đột nhiên hiện sanh thân trung ấm ở cõi người, thân trung ấm ở cõi người ấy bèn thủ diệt độ không thọ thân ngạ quỷ, thân người.

Hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi ngạ quỷ, thân trung ấm ở cõi ngạ quỷ đó đột nhiên hiện sanh thân trung ấm ở Cõi Trời, ở thân trung ấm Cõi Trời ấy bèn thủ diệt độ, không thọ thân ngạ quỷ, thân Trời.

Hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi địa ngục, thân trung ấm ở địa ngục ấy đột nhiên hiện sanh thân trung ấm cõi người, ở thân trung ấm cõi người bèn thủ diệt độ, không thọ thân ở địa ngục hay thân người.

Hoặc có thân trung ấm trụ ở địa ngục đột nhiên hiện sanh thân trung ấm ở Cõi Trời, ở thân trung ấm Cõi Trời ấy bèn thủ diệt độ, không thọ thân hình ở địa ngục.

Đó gọi là Đại Bồ Tát dùng trí không thoái chuyển quán khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới có chúng sanh thọ hình, chúng sanh không thọ hình, có tội, có phước đều biết tất cả.

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng và một vạn tám ngàn người, mười vạn Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền Đạp Hòa, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hưu Lặc liền rời chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay bạch Đức Phật: Lạ lùng thay lời pháp này! Vui thay pháp chưa từng có!

Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn đã hoan hỷ giảng nói pháp về thân trung ấm vô hình vô hạn lượng không thể nghĩ bàn, chẳng phải pháp hàng La Hán, Bích Chi Phật có thể đạt được. Chúng con ưa muốn mong thấy hình chất thân trung ấm.

Bạch Thế Tôn, cúi xin thương xót hàng chúng sanh hạ liệt để họ được đội ân tẩy trừ vĩnh viễn tâm cấu bẩn.

Lúc đó Thế Tôn bảo các vị trong hội: Lành thay! Lành thay nghĩa lý của câu các ông vừa hỏi. Ta nay sẽ vì các ông hiện thần túc để tám bộ chúng được thấy hình chất của thân trung ấm. Khi ấy Thế Tôn liền nhập Vô hình quán tam muội thấy khắp thân trung ấm của chúng sanh trong năm đường, có thọ thân hình hay không thọ thân hình, có tội, có phước đều biết tất cả.

Ngay lúc ấy chúng hội trên tòa cũng thấy được hình chất thân trung ấm trong năm đường đó, lại nghe Đức Như Lai nói Đạo Giáo cho các thân trung ấm ấy. Họ ngay khi đó tận trừ các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh.

Hoặc có thân trung ấm phát tâm đại thừa, hoặc có thân trung ấm nói lên hạnh chí bí mật. Các thân trung ấm tùy theo loại giáo hóa đều không bị nhiễm trước.

Chúng hội lại thấy thân trung ấm ở năm đường đó từ Nhất Trụ Địa đến Thập Trụ Địa, thấy có thân trung ấm đắc Nhất Sanh Bổ Xứ, ngồi dưới cội đạo thọ hàng phục vô số ức trăm ngàn quỷ, thân màu hoàng kim, đầy đủ các tướng, cũng có các Vua Trời Thích, Phạm Tứ Vương đến thỉnh Bồ Tát diễn nói pháp ấm vang khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới.

Lại thấy Chư Phật Thế Tôn ở cõi khác thọ ký cho Bồ Tát, nói rõ danh hiệu, cõi nước xa gần, hạnh thanh tịnh. Hoặc thấy Bồ Tát ở trước Thế Tôn tán thán pháp mười hiệu của Như Lai. Hoặc có Bồ Tát ở trước Thế Tôn tán thán pháp mười hiệu của Như Lai.

Hoặc có Bồ Tát làm hưng thạnh giáo pháp, đến cúng dường, hoặc dùng tạp kệ tán thán công đức của Như Lai. Các vị trong hội quán thấy chúng sanh của cõi đó ở trong thân trung ấm có đủ loại thần túc biến hóa không thể nghĩ bàn, lại thấy Đức Như Lai hiện ánh sáng của tướng lưỡi.

Mỗi ánh sáng đều có Đức Hóa Phật và tám bộ chúng vây quanh sau trước, nói pháp vô úy, trí không thoái chuyển, đầy đủ các pháp thâm tàng, hoặc truyền pháp thọ ký riêng cho hàng đệ tử Duyên Giác: Ở đời tương lai ông sẽ thành Phật hiệu như thế này…

Lúc đó một vạn tám ngàn người và trăm ngàn vị Thiên Tử ở trên tòa ngồi đều phát tâm đạo vô thượng chánh chân.

Bấy giờ Thế Tôn xả thần túc trở về tòa ngồi như cũ, bảo bốn bộ chúng: Thần đức của Như Lai không ai có thể biết hết, lại có bốn pháp không thể nghĩ bàn.

Bốn pháp ấy là gì?

Một là chí bí mật của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Hai là căn tánh của chúng sanh không thể nghĩ bàn.

Ba là đạo tuệ của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Bốn là ý quán khắp của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Lại nữa, này Tối Thắng, lại có bốn việc không thể nghĩ bàn.

Bốn việc đó là gì?

Một là nghi tắc của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Hai là pháp tòa của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Ba là giáo giới của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Bốn là định ý Kim Cang không thể nghĩ bàn.

Lại có bốn việc không thể nghĩ bàn.

Bốn việc đó là gì?

Ở dưới cội đạo thọ ý như hư không không thể nghĩ bàn. Không thấy phải cũng không thấy quấy không thể nghĩ bàn. Lấy tiểu làm đại, lấy đại làm tiểu không thể nghĩ bàn.

Nói pháp chắc chắn có chúng sanh được tế độ cũng không thấy có tế độ không thể nghĩ bàn. Lại có bốn việc tương ưng với thực hành pháp mà không thể chấp trước là nói có ngô ngã, không thấy sanh cũng không thấy có diệt, không tạo tác cũng không chấp đoạn, căn tánh của tất cả chúng sanh đều thanh tịnh.

Này Tối Thắng, đó gọi là pháp tương ưng mà khi Đại Bồ Tát thực hành pháp không bị chấp trước.

Thế nào Tối Thắng, Đức Thế Tôn có giới hạn không?

Ngài Tối Thắng thưa: Chẳng giới hạn.

Đức Thế Tôn lại hỏi Ngài Tối Thắng: Các pháp chân chánh hiện hữu từ pháp giới sanh vốn không có giới hạn thì có sanh ra pháp hiện hữu không?

Là chẳng phải không hiện hữu chăng?

Ngài Tối Thắng thưa: Bạch Thế Tôn, chẳng phải từ hiện hữu mà có, chẳng phải từ không hiện hữu mà không có.

Đức Phật hỏi: Thế nào Tối Thắng, các pháp không giới hạn chẳng phải từ hiện hữu mà có, chẳng phải từ không hiện hữu mà không có thì sao lại có thành tựu Đẳng Chánh Giác?

Ngài Tối Thắng thưa: Bạch Thế Tôn, chẳng có sự thành tựu Đẳng Giác.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Như Lai ngồi dưới cội đạo thọ quán pháp vô tế, giáo pháp vô sanh diệt đều là hư tịch, tự nhiên vô trí cũng không có trí.

Nếu không có trí thì có ai biết. Cho nên, này Tối Thắng, pháp ngô ngã là phương tiện giả đặt không thật, cũng không có kiến đạo. Đạo thì không có pháp kiến đạo. Không thấy, không nghe, không có trí tuệ, không có chấp trước kiến giải và pháp giới cũng như vậy, không thấy khởi diệt là pháp tạo an trụ, có người nhận lãnh giáo pháp cũng không thấy văn tự, chương cú.

Này Tối Thắng, như vậy là ngộ rõ các pháp hư không, không hình tướng.

Nếu có kẻ ngu phu, vô trí thì kẻ đó an trụ hư không chăng?

Ngài Tối Thắng thưa: Chẳng phải vậy.

Đức Thế Tôn dạy: Pháp tánh của tất cả các pháp là như thị, pháp chân tế bổn vô đều không sở hữu. Nay nói có đạo đại từ, đại bi, bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám hạnh Hiền Thánh, không, vô tướng, vô nguyện, sáu pháp tăng thượng, mười tám pháp bất cộng, không phải do các pháp này mà được thành đạo.

Đạo là vô hình cũng không thể thấy, vì pháp cô hình nên mới gọi là đạo. Đạo không có đến cũng không có đi. Này Tối Thắng, đó mới chính là đạo. Giả sử Như Lai từ pháp giới sanh, từ pháp giới diệt thì chính là hạnh sanh tử uế trước. Do không sanh diệt nên gọi là đạo.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đại Bồ Tát nhập hư không quán tam muội, ở trong các cảnh giới tu tập, không chấp nhiễm thiền. Dùng pháp thiền định đó đạt đến tâm vô ngại cũng không sai loạn, chẳng có thân, chẳng có tâm, chẳng có pháp bình đẳng hay không bình đẳng.

Tư duy Không định không thấy cương nhu, chí luôn đạm bạc, không tương ưng với pháp không tương ưng. Này Tối Thắng, đó gọi là không định vô hạn lượng không thể nghĩ bàn của Bồ Tát, chẳng phải là pháp hàng La Hán, Bích Chi Phật đạt được.

Này Tối Thắng, ví như lửa thiêu đốt núi đồng, rừng cây, thảo mộc. Lửa chẳng phải rừng cây, rừng cây chẳng phải lửa. Lửa chẳng phải là lửa, cũng chẳng phải là lìa lửa. Nên biết kiết sử của Bồ Tát cũng như vậy. Kiết sử chẳng phải là đạo, đạo chẳng phải là kiết sử.

Kiết sử cũng không cách xa đạo. Ngộ rõ Không định, hình tam muội cũng như thế. Các pháp Bổn vô thanh tịnh bình đẳng, hoặc dùng chánh định quán sát pháp tế mà đạt tâm bình đẳng, không nhiễm ô.

Tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Tâm không trụ sắc cũng không thấy pháp trụ thì vượt qua tất cả điên đảo. Do phương tiện nói pháp vô hình nên gọi là đạo, hoặc dùng ngũ thông, tam đạt diệu trí đi khắp nơi muốn giáo hóa chúng sanh.

pháp giáo hóa tự thể hiện hữu giáo hóa nhưng cũng không thấy có giáo hóa. Đó gọi là đạo siêu việt ra ngoài pháp ngũ thông. Hoặc lìa khỏi tâm quán Không của Thanh Văn, Duyên Giác, tâm không hiện quán Không của hàng Duyên Giác ngũ thông, đó gọi là đạo.

Bồ Tát lại dùng Định ý chánh thọ tam muội quán sát pháp bổn: Pháp từ đâu sanh?

Pháp từ đâu diệt?

Không thấy sanh cũng không thấy diệt thì mới gọi là đạo. Với pháp hữu vi của thế gian, pháp vô vi của đạo, không thấy thế gian cũng không thấy đạo thì mới gọi là đạo. Hữu lậu là trần lao, vô lậu là thanh tịnh, không thấy lậu cũng không thấy có pháp lậu.

Với mười pháp thiện hạnh, mười pháp bổn ác, không thấy thiện cũng không thấy ác. Với lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc không thấy khổ cũng không thấy vui.

Không thấy thành đạo cũng không thấy ở thế tục không thấy nói pháp Hiền Thánh tịch mặc. Này Tối Thắng, đó là Đại Bồ Tát nhập không định thì mới gọi là đạo.

Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ Tát lại phải tư duy hư không tạng tam muội, không thấy pháp giải thoát hữu dư trụ thọ mạng qua nhiều kiếp, không thấy giải thoát vô dư không có biến đổi thì mới gọi là đạo.

Đó gọi là Đại Bồ Tát tu tập thành tựu không tuệ, dùng quyền phương tiện khéo léo từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác cúng dường Chư Phật, theo hầu Chư Phật Thế Tôn, giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh Cõi Phật. Không thấy sắc tướng là sức tướng hiện tại. Thanh, hương, vị, tế hoạt xúc thức cũng như vậy. Không thấy có độ, đắc pháp Niết Bàn, không thấy pháp lưu chuyển trong sanh tử.

Nếu vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc, thọ trì, ghi nhớ mãi không quên thì hiện tại được tám phước công đức.

Tám pháp đó là gì?

Quán các pháp không, có đức tin không do dự.

Được pháp tạng sâu xa của Phật, ý không khiếp sợ.

Ý thanh tịnh, không dơ uế, không bị nhiễm ô.

Tâm như kim cương không thể phá hoại.

Các hạnh chân chánh, không theo cõi ma.

Làm thanh tịnh Quốc Độ Phật, độ người chưa được độ.

Tâm Đại Thừa rộng lớn, không ưa thích trí nhỏ hẹp.

Gần gũi thiện tri thức, không theo ngoại đạo.

Quán niệm mong cầu pháp chân chánh, không có tưởng ngã, nhân.

Đó gọi là Đại Bồ Tát đạt được tám công đức, ngộ rõ pháp thế gian không có ngã, nhân, thọ mạng.

Tâm trụ pháp Bổn vô thì mới tương ưng với chánh định, luôn dùng thiền định đạt đến diệt độ, khai hóa chúng sanh mà không có tâm mệt mỏi. Đó là thấy pháp thì mới tương ưng với đạo. Đó là vì thấy các pháp vắng lặng, không hình tướng, không hành, không nơi chốn. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ Tát ngộ rõ không chẳng phải hữu, không cũng chẳng phải là có pháp không.

Không chẳng phải là pháp không nên vắng lặng, vô danh. Có khi Bồ Tát quán các pháp, không nương tựa tam xứ, không chấp trước tam hữu. Bồ Tát ở cõi thế gian Trời, người phát tâm hoằng thệ độ chúng sanh mê mờ như vậy thì không thấy có chúng sanh được độ. Đó gọi là Đại Bồ Tát tu tập thành tựu không tuệ, vĩnh viễn không có tâm chấp trước.

Tối Thắng nên biết, pháp vô hình định ý mà Như Lai thể nhập chẳng phải là pháp hàng nhị thừa có thể thấy được, chỉ có Phật mới thấy rõ.

Trí tuệ Phật không ngăn ngại, không chấp trước, không bị nhiễm ô, không bị nhiễm chấp các cảnh giới. Nếu đạt pháp sâu xa không lấy đó làm vui, không chấp trước tám nghiệp không nhàn của thế tục, có bốn pháp biện tài vô ngại.

Không diệt, không thiêu đốt phiền não, chẳng phải không thiêu đốt phiền não. Không khởi, không sanh, chẳng phải không có sanh. Quá khứ vĩnh viễn diệt, chẳng phải có quá khứ. Hiện tại không trụ cũng không có pháp trụ.

Tương lai chưa khởi, không thấy pháp sanh. Đó gọi là Đại Bồ Tát không chấp trước, không ngăn ngại, không chấp trước tam xứ, không nhiễm ô tam hữu.

Bấy giờ chín vạn chúng sanh, mười một na thuật Trời, Người và các Trời, Rồng, Quỷ, Thần từ chỗ ngồi đứng dậy, vén y bày vai phải, quỳ thẳng, chắp tay bạch Đức Phật: Chúng con căn tánh thấp hèn được pháp thanh tịnh này mới có thể giảng nói pháp vô hình, pháp không danh tướng.

Bạch Thế Tôn, ngưỡng mong Thế Tôn làm cho thân trung ấm Trời người sanh đời tương lai được ở cảnh giới Cõi Phật nhận lãnh, chứng đắc pháp vô vi trong cùng ngày, cùng lúc, cùng một Quốc Độ. Khi ấy Đức Thế Tôn mỉm cười, miệng phát ra ánh sáng năm màu chiếu khắp Ba Ngàn Đại Thiên Thế Giới. Ánh sáng ấy nhiễu quanh thân ba vòng rồi nhập trở lại vào miệng Đức Phật.

A Nan quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật: Con tự nghĩ con theo hầu Phật dã hơn ba mươi năm nhưng chưa từng thấy ánh sáng như thế này.

Bạch Thế Tôn, ngưỡng mong Thế Tôn Giảng nói để chúng sanh tương lai vĩnh viễn không còn sự si mê, không thông tỏ.

Lúc ấy Thế Tôn bảo A Nan: Ông nay có thấy chín vạn chúng sanh, mười một na thuật Trời người kia không. Họ ở đây mạng chung, thân trung ấm đều sẽ sanh về Thế Giới Vi Trần.

Thân Trung Ấm đã sanh về nơi đó, mỗi thân theo thứ lớp thành Phật đều đồng một hiệu là Vô Sắc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn, toàn dùng Bồ Tát để làm chúng tùy tùng. Thân Trung Ấm ở Thế Giới ấy trụ thọ mạng một kiếp, sau khi Bát Niết Bàn, pháp để lại truyền một kiếp.

Lại tiếp theo có Đức Phật ra đời không dứt tuyệt. Khi Đức Phật nói pháp này, Bồ Tát ở Cõi Trời Biến Tịnh và vô số chúng sanh hối hận vì thọ nhận thân người và thân Trời, ngồi trên tòa khóc lóc không thể tự kềm chế.

Đức Phật biết như vẫn hỏi: Thiện nam tử vì sao khóc lóc bi thương quá lắm như vậy?

Các vị ở Cõi Trời Biến Tịnh thưa: Chúng con cũng muốn sanh về cõi đó nhưng vì không được dự phần nên buồn khóc.

Đức Phật bảo các vị Trời Biến Tịnh: Dừng lại! Chớ có nói lời đó! Các ông thuở xưa dã phát tâm thệ nguyện rộng lớn khác, nay vì sao lại muốn sanh về cõi đó. Trong hiền kiếp có tên là diệt, các ông sẽ tiếp nối nhau thành Phật Hiệu là Biến Tịnh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu.

***