Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM HAI MƯƠI SÁU

PHẨM TRONG MỘNG THÀNH ĐẠO
 

Bấy giờ Bồ Tát Trì Địa từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quỳ sát đất, chắp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn, thật là hi hữu! Thật là lạ thường! Nay con được nghe Bồ Tát Nhu Thủ cùng Ngài Tối Thắng luận về pháp vô hình, đạo không ngôn giáo, là pháp con chưa từng được nghe, chưa từng được thấy, làm nối tiếp hạt giống Phật khiến không dứt đoạn, lại làm Phật Sự, pháp không thể nghĩ bàn.

Đức Phật bảo Ngài Trì Địa: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Từ ức trăm ngàn kiếp tích lũy công đức, làm hưng thạnh việc Phật chưa từng mảy may giảm sút. Có Đức Phật xuất hiện ở đời, pháp mới lưu bố.

Khi ấy Ngài Nhu Thủ ở trước Đức Phật thưa: Chư Phật xuất hiện thế gian, pháp mới lưu bố thì các pháp có tướng mạo không?

Dùng ngôn từ truyền bá chăng?

Đức Phật nói: Chẳng phải.

Ngài Nhu Thủ lại bạch Phật: Như Lai xuất hiện độ cho tất cả chúng sanh đều thủ diệt độ. Nay con nghe Như Lai muốn tế độ chúng sanh hạn lượng. Tế độ chúng sanh hạn lượng thì không diệt độ.

Đức Phật bảo Ngài Nhu Thủ: Phải chăng ông nghe ta giảng không có chúng sanh nói có chúng sanh?

Ngài Nhu Thủ thưa: Chẳng phải.

Đức Phật hỏi: Dục làm cho có chúng sanh hay không có chúng sanh chăng?

Ngài Nhu Thủ thưa: Chẳng phải.

Đức Phật hỏi: Dục làm cho Như Lai khởi diệt, có trụ xứ chăng?

Ngài Nhu Thủ thưa: Chẳng phải.

Đức Phật bảo: Nếu Như Lai không có trụ xứ thì vì sao nói Như Lai độ chúng sanh đều khiến họ diệt độ?

Ngài Nhu Thủ bạch Phật: Nay lời con nói là phân biệt tứ cú, ngộ rõ các pháp đều đạt đến tổng trì, suy tư bổn tánh các pháp không sanh, không diệt. Không thấy sanh tử cũng không có Niết Bàn. Do đó nên không có chúng sanh hạn lượng sẽ thủ Niết Bàn.

Đức Phật bảo Ngài Nhu Thủ: Tận hay vô tận, pháp giới vốn vẫn thanh tịnh. Do thấy rõ nghĩa lý nên gọi là không chấp trước. Do biết văn tự mà không có ý, không có tưởng cũng không có thức phân biệt chấp trước thì có thể nào do thức tưởng phân biệt các trí tuệ thấy rõ chúng sanh thanh tịnh. bổn tánh của con người không thể biết cùng tận. Ta nay sẽ vì ông phân biệt nghĩa thù.

Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy tư ghi nhớ pháp này, là pháp Đại Thừa Bồ Tát không thể nghĩ bàn, chẳng phải pháp hàng La Hán, Bích Chi Phật theo kịp.

Ngài Nhu Thủ thưa: Con xin lắng nghe lời dạy, vui muốn được nghe.

Đức Phật bảo Ngài Nhu Thủ: Thức cô hình thì không biết rõ thức, không có thức niệm tưởng, thức nhận biết cảnh ảo hóa như mộng. Dùng đó để cứu độ, thu nhiếp vô lượng chúng sanh. Hoặc có Cõi Phật dùng văn tự để giáo hóa, ngộ rõ tánh của văn tự là vắng lặng.

Cách đây bảy vạn sáu ức A tăng kỳ Cõi về phương Trên có Cõi Phật tên là An Tịch. Đức Phật Hiệu là Diệu Thức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, đầy đủ mười hiệu.

Chúng sanh Cõi đó các căn đầy đủ, suy tư tu tập bổn nguyện không hề thiếu sót. Chúng sanh khi ngủ nhận lãnh giáo hóa mới được giác ngộ. Chỉ có Đức Như Lai tâm nhập định vắng lặng, theo căn tánh chúng sanh nên thị hiện phương tiện như đang ngủ.

Nếu Đức Phật muốn nói pháp thì nằm hông phải chạm đất hai chân xếp lên nhau. Chúng sanh thấy thế đều bắt chước Như Lai nằm hông phải chạm đất, hai chân xếp lên nhau. Mỗi người đều ngủ say.

Khi đó Đức Phật ở trong giấc ngủ nói pháp cho thần thức của các chúng sanh, hoặc nói pháp bố thí trừ sạch tam tưởng. Hoặc nói pháp trì giới, hương đức hạnh lan xa. Hoặc nói pháp nhẫn nhục, hàng phục tâm ý không khởi sân hận. Hoặc nói pháp tinh tấn, trừ bỏ lười biếng.

Hoặc nói pháp thiền định, thức không rong ruổi. Tuyên nói pháp trí tuệ ngăn chặn sự ngu ám. Như Lai thực hành phương tiện khéo léo tùy theo loại, không chấp trước, với bốn pháp môn thấu tỏ, diễn nói không ngăn ngại, tùy theo thức cao thấp mà diễn giảng các giáo pháp đó, tùy theo căn thức mà nói pháp đại thừa hay tiểu thừa để truyền trao chánh pháp.

Khi đó Đức Như Lai ấy lại vì chúng sanh diễn nói bốn pháp vô thường, khổ, không, vô ngã xong, dần dần nói pháp ba mươi bảy đạo phẩm: Bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám đạo Hiền Thánh. Giảng rõ pháp định ý không, vô tướng, vô nguyện. Bấy giờ các thức ở trong mộng nhận lãnh giáo pháp, theo pháp tương ứng thành tựu quả đạo tích Tu Đà Hoàn.

Các thức đó ở trong mộng thành tựu đạo quả Tần Lai Tư Đà Hàm, Bất Hoàn A Na Hàm cho đến đạo quả vô trước A La Hán cũng như vậy. Các Đức Phật chứng ngộ cũng ở trong mộng, thức ở nơi trống trải, không thầy mà tự ngộ.

Ở trong giấc ngủ, thân tướng màu hoàng kim, các tướng tự trang nghiêm, bay lên hư không hiện mười tám pháp biến hóa.

Lại ở trong mộng trên thân phóng lửa, dưới thân tuôn nước, nằm ngồi trên hư không không bị ngăn ngại. Khi muốn nhập cảnh giới Niết Bàn giải thoát cũng ở trong mộng ngồi kiết già trụ nơi Niết Bàn Vô Dư mà Bát Niết Bàn, thân như gỗ đá không hề hay biết.

Các loại chúng sanh giác ngộ xong, mỗi vị không nói năng, không suy tư chấp trước thức trong mộng liền thu lấy Xá Lợi để phụng thờ. Vị Bồ Tát được thọ ký sắp thành Phật đều ở trong mộng, ngồi dưới tàng cội thọ Vương, nơi vùng đất màu hoàng kim hàng phục ma oán, đầy đủ vô lượng phước.

Thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng màu vàng tía chiếu xa. Bồ Tát ở trong mộng như vậy giác ngộ thì thân sắc màu hoàng kim, đầy đủ các tướng, thần túc biến hóa không bị ngăn ngại, không có ngôn giáo âm thanh qua lại, muốn độ chúng sanh đều ở trong mộng, không mượn thân hư giả bên ngoài mà vẫn có chúng sanh được độ.

Nhu Thủ nên biết, căn tánh chúng sanh lãnh thọ không đồng nhau nên Chư Phật dùng trí tuệ hiện vô số phương tiện giáo hóa. Hoặc có Cõi Phật do địa đại mà thành, chúng sanh ở địa giới không thể tính lường. 

Như Lai vào đó để giáo hóa họ, khi tất cả chúng sanh trụ Cõi Niết Bàn Vô dư mà Bát Niết Bàn. Hoặc có Cõi Phật do thủy đại mà thành, chúng sanh ở thủy giới không thể tính lường.

Như Lai vào đó để giáo hóa họ, khi tất cả chúng sanh trụ Cõi Niết Bàn Vô Dư mà Bát Niết Bàn. Hoặc có Cõi Phật do hỏa đại mà thành, chúng sanh ở hỏa giới không thể tính lường. Như Lai vào đó giáo hóa họ, khiến tất cả chúng sanh trụ Cõi Niết Bàn Vô dư mà Bát Niết Bàn.

Hoặc có Cõi Phật do phong đại mà thành, chúng sanh ở phong giới không thể tính lường. Như Lai vào đó giáo hóa họ, khiến tất cả chúng sanh trụ Cõi Niết Bàn Vô Dư mà Bát Niết Bàn. Hoặc có Cõi Phật do không đại mà thành, chúng sanh ở phong giới không thể tính lường.

Như Lai vào đó giáo hóa họ, khiến tất cả chúng sanh trụ Niết Bàn Vô dư mà Bát Niết Bàn. Hoặc có Cõi Phật do thức đại mà thành gọi là An tịch Phật Độ diệu thức Như lai, thần thức thông đạt ở trong mộng nhận lãnh giáo pháp mà thủ diệt độ.

Đức Phật bảo Ngài Nhu Thủ: Cách đây bảy mươi ức hằng hà sa Cõi Phật về phương Bắc có Cõi Phật tên là Thâm Yếu, Đức Phật Hiệu là Phạm Tuệ Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười hiệu. Chúng sanh ở Cõi đó đều phát thệ nguyện nên mới sanh đến Cõi đó, đều đồng một hiệu là Tiếp Thức.

Nhu Thủ nên biết, chúng sanh Cõi đó đều có thần thông, thân hình tùy theo tâm niệm không bị ngăn ngại. Gọi là Tiếp Thức nghĩa là phát tâm hoằng thệ.

Nếu có thần thức tương ưng với sanh thú thì thọ thân bào thai. Muốn thì dùng thần túc dạo đi qua lại trên hư không, tiếp thức vẫn trụ, biến hóa mà diệt độ không thọ thân bốn đại. Nay là tám vị Bồ Tát Bàn Đà Hòa ở trên tòa kia.

Cách đây một trăm bốn mươi hằng sa cõi về phương Đông Nam, có Cõi Phật tên là Phạm Âm, Đức Phật Hiệu là Thai Chân Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu.

Chúng sanh cõi đó sáu pháp thần thông đều thuần thục, thân đồng một sắc tướng đều do thệ nguyện nên mới sanh về cõi đó. Gọi là Thai Chân chính là phát tâm hoằng thệ.

Nếu có thần thức ở trong thai mẹ là muốn dùng thần túc nhập thai để giáo hóa. Thần thức đó khiến người mẹ kia không biết mình đang ở trong thai, rồi ở trong thai trừ phiền não đắc giải thoát, đạt đến Niết Bàn. Nay chính là Bảo Tích đồng chân và Bồ Tát Trì Địa đang ở trên tòa kia.

Như Lai dùng phương tiện giáo hóa có vô số pháp thần biến, lấy ức trăm ngàn Cõi Phật đặt an ổn trong lòng bàn tay, rồi trả lại như cũ mà không ai hay biết. pháp giới hư không không thể nghĩ bàn.

Này Nhu Thủ, đó gọi là đạo tích mà bậc Đại Bồ Tát phải tu tập, chẳng phải pháp hàng La Hán, Bích Chi có thể đạt được, phân biệt thức vi tế giáo hóa chúng sanh khiến mỗi người đều được độ, hoặc nói pháp không vô hư vô, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, pháp không sanh diệt.

Thế nào Nhu Thủ, nếu có vị thiện nam, thiện nữ phát tâm hoằng thệ khiến cho hàng La Hán, Bích Chi đầy khắp trong mười phương Thế Giới, mỗi vị đều thành đạo, tâm không thoái chuyển, phước đó có nhiều không?

Ngài Nhu Thủ thưa: Bạch Đấng Thiên Trung Thiên, rất nhiều! Rất nhiều! 

Đức Phật dạy: Nếu có Bồ Tát dùng pháp vô hình diễn nói cho thức chúng sanh, hoặc nói pháp vô thường, khổ, không, phi thân vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện. Phân biệt rõ ràng từng pháp vô hình, vô tướng, không thể nắm giữ thì phước đức hóa độ thức đó thật vô lượng.

Vì sao như thế?

Bốn đại hữu vi phải bị trải qua Già Ca Việt La. Bốn đại vô vi vĩnh viễn tịch tĩnh không khởi. Đó gọi là pháp Chư Phật đã giảng nói, dùng phương tiện đó khiến vi thức tịch tĩnh. Pháp tánh không ngôn giáo mà không thể lường là hữu vi, hữu tướng hay vô vi, vô tướng.

Vì sao?

Vì không lìa hữu vi, không lìa vô vi, lại cũng không nói tu tập là xả bỏ pháp giáo hóa vô hình kia, không có pháp giáo hóa đó. Cho đó Là pháp phàm phu, là pháp Hiền Thánh. Đó là pháp học, đó không phải là pháp học, là pháp Thanh Văn, là pháp Duyên Giác, là pháp Bồ Tát, là pháp Phật.

Đức Phật bảo Ngài Nhu Thủ: Như Lai giảng nói pháp cho thức không thấy các pháp cũng không có pháp tưởng, hư không vô hình cũng không thể thấy.

Kẻ phàm phu ngu mê dùng các màu sắc tươi đẹp vẽ trên hư không, muốn vẽ thành hình Trời, Rồng, Thần… tám bộ chúng làm vật bố thí cho người, há có thể được không?

Ngài Nhu Thủ nói: Rất khó! Rất khó! Bạch Đấng Thiên Trung Thiên, điều đó chưa từng có.

Đức Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nhân giả nói. Các pháp là vô số. Pháp mà Như Lai biến hóa cũng vô số. Các pháp vô hình tức không có hai pháp đối đãi.

Này Nhu Thủ, theo ý ông thì thế nào, pháp vô hình có xứ sở không?

Ngài Nhu Thủ đáp: Bạch Thế Tôn, không có.

Đức Phật bảo Ngài Nhu Thủ: Do đó nên biết Phật pháp là vô số, không nói, không dạy, đều là pháp vô sở hữu.

Bấy giờ Ngài Nhu Thủ ở trước Đức Phật thưa: Con vừa nghe Thế Tôn dạy các pháp không có tướng cũng không có hình chất. Đức Như Lai thương xót tất cả, không vật gì không quán thấy, vì sao lại nói khai hóa chúng sanh, thanh tịnh Cõi Phật. Đó là pháp hữu lậu hay là pháp vô lậu, là pháp hiện tại hay là pháp quá khứ, vị lai.

Lại nữa, Đức Phật nói pháp đó là pháp độ thế gian hay chẳng phải là pháp độ thế gian, là có chấp trước hay không chấp trước, là có danh xưng hay không có danh xưng, là hữu số hay vô số?

Đó là pháp sanh tử hay đó là pháp Niết Bàn?

Vì sao Thế Tôn nói các pháp không có tướng cũng không có hình chất?

Đức Phật bảo Ngài Nhu Thủ: Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông hỏi thì các pháp ba thừa, ba đời, sáu độ vượt qua sanh tử của thế gian, hữu vi, vô vi. Không phải hữu vi, không phải vô vi. Có chấp trước, không chấp trước. Có danh xưng, không có danh xưng. Hữu số, vô số. Hữu lậu, vô lậu.

Ba mươi bảy phẩm pháp, không, vô tướng, vô nguyện, từ pháp hữu vi đến vô vi đều là pháp số thế gian, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Pháp vô hình thì không có hình tướng, không có âm tiếng nên không thể thấy.

Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, pháp phương tiện khéo léo đều là pháp thế tục chẳng phải đệ nhất nghĩa, pháp Niết Bàn diệt tận vĩnh viễn vắng lặng, an vui.

Đức phật bảo Ngài Nhu Thủ: Bồ Tát phải suy tư tìm hiểu bổn tánh đó rồi lại diễn nói có báo ứng không, nói pháp trừ tám nạn mà âm thanh không tiếng có báo ứng không, truy tìm căn nguyên rốt ráo của chúng sanh có báo ứng không, thuận theo Kinh Điển, trừ sạch kiết sử có báo ứng không.

Nếu Như Lai không nhiễm ba đời, chánh pháp khai hóa chưa từng tổn giảm có báo ứng không, nếu các pháp có quả báo ứng thì có thể cùng tận không, tâm thức thuần thục ra vào vô ngại có thể cùng tận không, hoặc dùng trí tuệ phương tiện thuận theo ái dục có thể cùng tận không.

Thuận oai nghi lễ tiết mà không phạm có thể cùng tận không, giáo hóa ba thừa đều làm cho sung mãn có thể cùng tận không, tư duy pháp bổn không xả pháp tổng trì có thể cùng tận không.

Ngộ rõ chương cú các pháp là thanh tịnh, ngộ rõ chương cú pháp vi diệu phân minh, quán pháp bốn ý chỉ, định ý của Chư Phật có thể cùng tận không. Phân biệt pháp ý đoạn chưa từng lìa bỏ, diễn nói pháp vô cùng không cho là khó có thể cùng tận không.

Thần túc vô ngại với núi sông, vách đá thông đạt không ngăn ngại có thể cùng tận không, phân biệt rõ ràng pháp năm căn, Thánh điển, chẳng phải là pháp ngoại đạo tà giáo có thể phá hoại có thể cùng tận không.

Thần lực của Như Lai thẩm suy, diễn nói chánh pháp, không khởi niệm tưởng nghi ngờ phải quấy, dùng hoa thất giác ý để tự trang nghiêm như đeo chuỗi ngọc anh lạc, ở trong đại chúng không có tâm khiếp nhược, luân nói ba mươi bảy đạo Hiền Thánh, vĩnh viễn lìa bỏ ngoại đạo tà giáo lại có thể cùng tận không. Giảng nói pháp chánh định tam muội thuận nghịch, lại phân biệt danh thân, cú nghĩa có thể cùng tận không.

Khổ, tập, tận, đạo cho đến ba mươi hai tướng, ấn phong của đạo, mỗi tướng đều có phước báo lại có thể cùng tận không.

Ngài Nhu Thủ bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn, giáo pháp vô hình nên không thể cùng tận. Các pháp hữu vi đều là pháp tổn giảm. Pháp Niết Bàn vô vi mới không thể cùng tận.

Bấy giờ Ngài Tối Thắng bạch Đức Phật: Niết Bàn, người nhập Niết Bàn.

Thế nào là Niết Bàn?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Gọi là Niết Bàn tức là dừng nghỉ.

Ngài Tối Thắng lại hỏi: Thế nào là dừng nghỉ?

Đức Phật nói: Là vô vi nhàn tĩnh.

Lại hỏi: Thế nào là vô vi?

Thế nào là nhàn tĩnh?

Đức Phật nói: Tưởng diệt là nhàn tĩnh.

Thức dừng là vô vi.

Lại hỏi: Chẳng phải là không sao?

Đức Phật nói: Phi Không không.

Lại hỏi: Phi Không không thì làm sao thức dừng được?

Đức Phật nói: Phi Không không.

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng tâm càng nghi hoặc liền bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn, vì sao con hỏi hai việc mà Thế Tôn đều giải đáp giống nhau?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Dừng lại! Dừng lại! Này Tộc Tánh Tử, chớ cho là tính chất của không trong lời giải đáp của Như Lai giống nhau. Chỉ vì tâm ý của Tộc Tánh Tử chưa ngộ rõ mà thôi.

Nay Ta hỏi ông nghĩa của Phi Không không và thức vắng lặng an tĩnh. Ông theo sức biện tài trả lời Ta rõ ràng từng câu.

Này Tộc Tánh Tử, thế nào là nghĩa của phi không?

Ngài Tối Thắng thưa: Các pháp vô số, chẳng phải không có số.

Đức Phật nói: Này Tộc Tánh Tử, chẳng phải.

Đức Phật lại hỏi: Thế nào là thức dừng vắng lặng an tĩnh.

Ngài Tối Thắng bạch Phật: Tất cả đều quy về không khởi, chẳng phải không có khởi.

Đức Phật nói: Này Tộc Tánh Tử, chẳng phải.

Lúc đó Ngài Tối Thắng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, năm vóc sát đất, lạy chạm chân Phật, lui ra trong chốc lát rồi bạch Đức Phật: Con tự nghĩ có lỗi lầm với lời dạy của Như Lai. Cúi mong Thế Tôn thương xót tha thứ sự lầm lỗi đó. Mong Thế Tôn Giảng nói để con vĩnh viễn đoạn trừ tâm ngu hoặc.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Pháp không phải nhiều, chỉ ngộ rõ là gốc. Trên ngọn Hương Sơn có cội cây mỗi nhánh dài vạn dặm, trở cong ngược đâm sâu vào lòng đất thì trái mới chín.

Trái phải ở trên cao, ngược lại nhánh thì càng dùi sâu xuống đất. Nay sở kiến của ông cũng như vậy. Ta hỏi ông không mà ông dùng hữu để trả lời, cùng với quả và nhánh cây kia có khác gì. Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông.

Hãy khéo suy nghĩ, ghi nhớ! Ngài Tối Thắng thưa: Xin vâng.

Bạch Thế Tôn! Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Phi là Phi Không. Tất cả các pháp đều có hiệu là Phi.

Phi là tên của các pháp. Pháp có tên gọi tức là phi không.

Do ngộ rõ Phi quy về không nên gọi là Phi không. Pháp gọi là thức thì phi hữu, phi vô.

Thế nào là thức phi hữu, phi vô?

Ở thế gian không nhiễm thì gọi là phi hữu. Ở trong pháp không vắng lặng, an tĩnh thì gọi là phi vô. Thức bỏ đây thích ứng với đó thì gọi là phi hữu. Ở bên bờ sanh tử thương xót chúng sanh thì gọi là phi vô. Có thể dùng hóa thân đầy khắp Cõi mười phương, mỗi hóa thân đều không tịch thì gọi là phi hữu.

Mỗi hóa thân đều nói pháp cảm hóa một thức thì gọi là phi vô. Như Lai nhập định, thân tâm tịch tĩnh trải qua ức ngàn na thuật hằng sa kiếp số, không khởi tưởng diệt thì gọi là phi hữu. Lại từ định khởi tiếp độ chúng sanh đưa họ đến giải thoát thì gọi là phi vô.

Thế nào Tối Thắng, Ta nay phân biệt rõ ràng phi hữu, phi vô cho ông có phải là nghĩa chân không Niết Bàn không?

Ngài Tối Thắng thưa: Không chính thật Không. Niết Bàn chính thật Niết Bàn.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Dừng lại! Dừng lại! Này Tộc Tánh Tử, phi không đó cũng là phi Niết Bàn.

Vì sao như vậy?

Vì đều do phương tiện văn tự giả dối tương truyền, giả hiệu của thế tục nên gọi là phi hữu phi vô.

Cảnh Giới pháp tánh tận cùng không có đầu mối, không có danh tự, há phải có phi hữu, phi vô sao?

Trừ sạch cao thấp, không có tâm phải quấy, biết tâm dục nộ hay không có dục nộ, ngộ rõ tâm vô minh hay không vô minh. Các buộc ràng của ngũ cái hiểu rõ là một cũng không thấy một thì gọi là không, thì gọi là Niết Bàn.

Bấy giờ Ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: Lành thay! Lành hay! Thế Tôn nói pháp tánh không và Niết Bàn giới phi hữu, phi vô thật không ai sánh bằng. Khi Thế Tôn nói pháp đó, sáu vạn Tỳ Kheo có bổn nguyện Thanh Văn hồi tâm chuyển ý theo Đại Thừa, đều đắc bất thối chuyển.

Mười một na thuật Chư Thiên, người đời đều đắc hạnh tận tín. Lại có tám mươi ngàn vị Bồ Tát ở phương khác đều đạt được pháp nhẫn bất khởi.

Đức Phật dạy: Này Tộc Tánh Tử, Bồ Tát ngộ rõ tánh không có mười việc làm đưa đến đắc diệt độ.

Mười việc ấy là gì?

Một là Chư Phật Thế Tôn luôn trụ pháp giới không xả đạo trí.

Hai là Chư Phật Thế Tôn từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh, không xả tâm đại bi.

Ba là việc làm như nguyện, không có sai nghịch.

Bốn là độ chúng sanh các căn thuần thục.

Năm là Chư Phật Thế Tôn quán rõ các pháp không, không sở hữu.

Sáu là Chư Phật Thế Tôn phân biệt trí tuệ, tam độc, đẳng phần cũng không sở hữu.

Bảy là Chư Phật Thế Tôn ở các pháp giới không khởi tâm tăng giảm.

Tám là phát khởi tâm học bình đẳng không hai.

Chín là ngộ rõ pháp tánh chân như, không xả bổn tế.

Mười là Chư Phật Thế Tôn thực hành các đạo pháp nhất tướng vô tướng.

Này Tộc Tánh Tử, đó gọi là Đại Bồ Tát ngộ rõ pháp tánh không, tu tập mười pháp này thì đưa đến đắc Niết Bàn.

Lại nữa, Đại Bồ Tát thực hành sáu pháp thần thông đến pháp giới không có mười việc để tu tập.

Mười việc đó là gì?

Một là quán rõ hoàn toàn quá khứ, không mất trí tuệ sáng.

Hai là quán rõ hoàn toàn vị lai, không mất trí tuệ sáng.

Hai là quán rõ hoàn toàn vị lai, không mất trí tuệ sáng.

Ba là quán rõ hoàn toàn hiện tại, không mất trí tuệ sáng.

Bốn là quán chúng sanh trong năm đường, biết rõ hoàn toàn căn gốc, không mất trí tuệ sáng.

Năm là quán tất cả pháp sanh, pháp diệt của tất cả thế gian, không mất trí tuệ sáng.

Sáu là quán tất cả chúng sanh từ hữu mà sanh, từ hữu mà diệt, không mất trí tuệ sáng.

Bảy là quán tất cả chúng sanh từ vô mà sanh, từ vô mà diệt, không mất trí tuệ sáng.

Chín là không có tâm chọn lựa là có thể độ, là không thể độ, không mất trí tuệ sáng.

Mười là ngộ rõ căn môn pháp giới không khuyết thiếu, không mất trí tuệ sáng.

Này Tộc Tánh Tử, đó gọi là Đại Bồ Tát tu tập sáu pháp thần thông đạt đến pháp giới Không.

Đức Phật dạy: Này Tộc Tánh Tử, Đại Bồ Tát đến pháp giới không phải tu tập mười việc.

Mười việc ấy là gì?

Một là quán các chúng sanh có bao nhiêu loại tâm, có bao nhiêu loại hạnh đều biết rõ. Đó gọi là trí tuệ của Bồ Tát.

Hai là quán tất cả chúng sanh có bao nhiêu loại tâm, có bao nhiêu loại quả báo đều biết rõ.

Ba là vắng lặng, vô ngôn như thái tử Vụ Phách, biết rõ hoàn toàn suy tư trong tâm ý chúng sanh.

Bốn là biết dị tâm, dị hạnh của các chúng sanh, dùng trí tuệ của Phật, Hiền Thánh mà giảng dạy, truyền trao cho họ.

Năm là từ lau xa đã tu tập pháp tánh, không xả bỏ tâm tội lỗi.

Sáu là làm chúng sanh an trụ nơi pháp Phật trụ.

Bảy là dùng trí tuệ Phật, Hiền Thánh biết rõ hoàn toàn tâm, ý, thức, niệm trong năm đường.

Tám là có truyền dạy, giảng nói thì không xả bỏ pháp đại thừa.

Chín là đắc tâm thức định tĩnh, ý không loạn của Phật.

Mười là đạt tâm vô lượng, không trụ nơi pháp giải thoát cũng không thấy chúng sanh được độ.

Này Tộc Tánh Tử, đó gọi là Đại Bồ Tát đạt đến pháp giới không, tu tập mười loại trí tuệ vô lượng.

***