Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI BA

PHẨM CUNG KÍNH
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật: Vì sao nói các bậc Bồ Tát luôn theo Phật nghe Pháp, khởi tâm cung kính, ý hân hoan không thể tự kềm chế?

Đức Thế Tôn dạy: Pháp yếu này cũng như thuốc của Thần Na Đề. Nếu người nào uống thuốc thần này, tâm thần luôn tự nhiên hân hoan, nhu hòa, trừ dâm, nộ, si, không còn các bệnh.

Người nghe nghĩa lý một câu của pháp này thì đạt đến đại thừa, ra khỏi vọng tưởng, lìa bỏ đường ác. Người chưa đạt được chí nguyện tự tại sẽ đạt được, các căn đầy đủ thường không khiếm khuyết. Nếu có người tâm ý chuyên nhất siêng năng tu tập chánh hạnh, không có niệm tưởng khác, thuận theo pháp này thì các bệnh trần cấu tự nhiên tiêu trừ.

Nếu vị thiện nam, thiện nữ được nghe pháp tin tưởng, sanh tâm cung kính chánh pháp, ngồi dưới cội cây thân thẳng nhất tâm tư duy, giả sử tâm ý đảo loạn thì phải tu tập lại từ đầu.

Nếu ý không định thì phải tự điều phục, tự trách: Có gì mà không đạt được, không trừ được tâm ác. Cần khổ trải qua nhiều kiếp mà không kiến đạo. Tinh tấn đến ngày nào mới thành tựu đạt được vô lậu.

Họ do pháp bình đẳng nên được độ thoát. Như vậy, này Tối Thắng, người thuận theo pháp này không ở trong ba cõi cũng không lìa ba cõi.

Người ấy lại dùng ba ngôi báu, bảy pháp Cam Lộ sáng suốt cấm chế để tự phòng hộ, luôn hối hận về lỗi quá khứ, không tạo tội ở tương lai, sẽ đạt được mười tám pháp bất cộng của Chư Phật, bốn pháp vô sở úy, năm căn, năm lực, thiền định giải thoát.

Vị ấy Thuyết pháp bình đẳng không đối đãi, thân sắc màu hoàng kim, tướng tốt tự trang nghiêm, có các loại công đức như ngọc anh lạc, giảng pháp âm thanh vang khắp mười phương. Này Tối Thắng, đó là nói bậc Bồ Tát Đại Sĩ phải đạt được mười pháp công đức.

Mười pháp đó là gì?

Nghe chánh giáo, ý chuyên chú tư duy. Theo thiện tri thức cũng không sanh tâm kiêu mạn trái nghịch. Không có tâm tự đại hay tự ti mà luôn giữ tâm trung đạo. Thực hành bố thí trọn không hư dối.

Theo chân lý thể nhập trí tuệ sâu xa, ý cũng không loạn. Hoan hỷ bố thí, tâm vui mừng không hối hận. Đối trước người nhận thí không có tâm do dự chọn lựa. Thấu đạt biên hạn của khổ, tuyên nói pháp vô ngã. Tự đạt thần thông, không bỏ phương tiện quyền xảo. Đó là đạt được mười pháp công đức.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Nghe pháp tâm chuyên chú

Thuận đạo, không tưởng, nguyện

Nương nhờ thiện tri thức

Bố thí không hối hận

Thương người như thương mình

Cao thấp theo nhan sắc

Niệm cung kính nhất tâm

Đạt mười phước công đức.

Tối thắng nên biết, phương tiện khéo léo thích hợp với trí Ba la mật thì đạt được pháp Đại Thừa Phương Đẳng của Bồ Tát.

Như Lai vì thương xót người đời nên xuất hiện ở thế gian, thị hiện bao nhiêu pháp tu tập không giống nhau, hoặc thị hiện Thanh Văn, Duyên Giác thừa, hoặc tự ẩn nơi hang sâu, khe núi, hoặc kinh hành tự chế phục tâm mong cầu, quán xét trong thân không vật gì để đáng tham.

Do vậy nên các vị phải tự tư duy đó là các pháp mà Như Lai khai hóa. Người tin tưởng lời ta nói, ghi nhớ trong tâm thì ở trong pháp hiện tại liền được diệt độ. Tuy hàng dị học không cải đổi chánh hạnh như các vị hãy vì các kẻ dị học ấy mà trổi lên pháp cổ, giảng diễn giáo pháp.

Pháp đó không có tưởng cũng không có các niệm, làm cho chúng sanh dứt hết các lậu. Các bậc như thế không thể tính kể, kính mộ nghe kinh số đó không chỉ một loại. Người bỏ chân theo ngụy cũng nhiều vô số, hiện tại trước mắt số đó thật khó lường. Hoặc có Bồ Tát chuyên quán Pháp Môn giải thoát, tuy hạnh tu đầy đủ nhưng ham thích diệt độ.

Vì sao?

Vì họ chưa hiểu rõ pháp phương tiện quyền xảo nên gặp nạn khó khăn. Như Lai dùng thần túc hướng đạo khiến họ biết rõ nhưng họ chỉ tự giác ngộ chẳng phải hạnh Bồ Tát nên lại bị Ma Ba Tuần quấy nhiễu, từ đó thối thất trở lại phàm phu.

Tối Thắng nên biết, Như Lai ngày đêm quán sát thông sốt quá khứ, hiện tại, vị lai ai có căn tánh ám muội, thối thất, không tinh tấn. Ai lúc trước tinh tấn tu tập đến Bồ Tát vị nhưng lui sụt thì nhiều như cát Sông Hằng, tiến bộ thì ít như sợi lông.

Tâm họ cũng tự biết nhưng không có thần thông. Thường thì người mới phát tâm, tâm ý rất kiên cố nhưng nếu phải thành tựu đoạn trừ căn gốc tâm chúng sanh, tu tập pháp định giải thoát không sanh diệt thì họ lại nghi ngờ cho là chẳng phải chân thật.

Như Lai phải dùng phương tiện quyền xảo khéo léo thuyết chân lý khiến họ vui thích muốn nghe pháp nhẫn vô sở tùng sanh, pháp quan trọng mười hai nhân duyên. Họ trước phải phân biệt ngộ rõ không, vô tướng, vô nguyện. Hiểu rõ vạn vật là vô thường, chẳng phải chân thật, chẳng hiện hữu. Ngã, nhân, thọ mạng là hư vô vắng lặng.

Đức Phật lại bảo Bồ Tát Tối Thắng và chúng hội: Ta lại nhớ khi ta chưa thành tựu Phật Quả, ta được các Đức Như Lai hiện ra giáo huấn, lại dùng oai thần hiện ra hướng đạo.

Đó là do niệm hạnh nguyện khi xưa nên mới gặp Chư Như Lai, đạt được tâm thanh tịnh, chí hướng an ổn. Nay Ta đã thành Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác đầy đủ các hạnh xuất hiện ở đời, đó là do giữ gìn tâm ý không thoái chuyển. Chúng Bồ Tát cũng vô lượng, sức biến hóa thần túc không thể hạn lượng, hàng phục ma khiến chúng không còn cơ may.

Nếu Ta đi đến thành ấp, quận huyện, thôn xóm, thấy ta, các loài chúng sanh liền giữ gìn tâm ý nghe Kinh không có niệm khác, hưng thạnh Tam Bảo không để dứt đoạn. Người cầu pháp đều được thỏa mãn, an ổn tu hành.

Đức Phật bảo Bồ Tát Tối Thắng: Nếu có chúng sanh tin theo giáo pháp không, vô tướng, vô nguyện thì phải thực hành ba mươi sáu việc khiến tâm không lo lắng tổn giảm.

Thế nào là Bồ Tát thực hành ba mươi sáu việc khiến tâm không lo lắng, tổn giảm?

Đó là Bồ Tát phân biệt ba hướng cũng không có tâm oán hận. Tuy ở trong ái dục mà không bị nhiễm ô, quán vô thường mà không có tưởng quán, tâm hành thanh tịnh không mất pháp tánh, mong cầu pháp giải thoát của chư Hiền Thánh.

Vì người có tâm hướng đạo nên độ chúng sanh. Vọng kiến đã trừ, biết rõ chúng đều là vô thường, ứng hợp với hạnh Chánh Giác vô sở trước, theo duyên sanh diệt trừ bỏ buộc ràng, thực hành bố thí không vì tự thân, ngộ rõ cội gốc của người vốn không xuất sanh, tuổi thọ dần dần mất đi không bao giờ còn mãi.

Mạng sống biến dị như ảo như hóa. Quá khứ vĩnh viễn trôi qua không thấy dấu vết, tương lai không bóng hình lại phải thọ thân hiện hữu, hiện tại rong ruổi không biết hướng đi. Tuệ sáng biết rõ nghiệp nên thần thức không trụ, không ràng buộc với việc mở hay buộc vào định xứ không tuệ.

Tinh tấn tu tập ba việc, lại phải trừ bỏ ba việc không nương tựa vào không tuệ nhận lãnh quả chứng của mình, trưởng dưỡng thân mạng đưa đến Đạo Tràng. Ở trong dục hay vô dục cũng không ly dục, chánh định của Chư Phật luôn hiện tiền.

Luân hồi qua lại nhưng không khởi sanh vô tưởng, chí thường trụ nơi các tuệ thần thông, thể nhập sâu xa pháp tạng mà không thấy có thể nhập, lấy diệt tận, vô sanh làm chỗ trụ. Như như như thế không hình không tướng, vốn không có hữu tế, tế cũng là vô tế.

Thường không có tưởng thường hằng, tư duy về vô thường. Tuy hiện trong sanh tử mà không thấy sanh, vào trong năm đường mà ngộ rõ không có năm đường, trần lao là ràng buộc tự thân đã thoát ly chúng. Tự ngộ vô vi, không có dục mong cầu.

Thấy độ người như hư không, do không nên chẳng có pháp nào để thành tựu. Thân làm, miệng nói đều không bị tổn giảm. Này Tối Thắng, đó là ba mươi sáu pháp hành thượng diệu của Bồ Tát, chẳng phải pháp hàng Thanh Văn, Duyên Giác theo kịp.

Bồ Tát phải khéo quán sát chúng rồi vì người giảng dạy, không để chúng sanh có tâm tranh tụng. Như thế bởi vì hiếm có chúng sanh nào có thể tin pháp này. Người có thể tuyên nói pháp duyên nghiệp thì mới ứng hợp với tâm vô sanh. Nếu thấy chúng sanh tâm ý không kiên cố thì phải dần dần khai mở khiến họ được hiểu rõ được mất tuy quan trọng nhưng ý phải khiêm cung, chớ tự đề cao.

Lại nữa, nếu có tâm si thì dùng pháp quán Bổn vô ba đời bình đẳng không có sai khác, nhưng không thấy bình đẳng cũng không thấy không bình đẳng. Thấy cũng như không thấy, lại cũng chẳng thấy, hình dung có sắc tướng. Sắc tự nó là vô sắc, vốn không có sắc.

Không có thức để nhận biết sắc thì há có thức sao?

Vì thâu nhận âm thanh bên ngoài, tai nghe âm thanh nên có thức. Mũi ngửi hương phát sanh thức tự biết mùi hôi thối. Lưỡi nếm vị phát sanh thức phân biệt ngon dở. Thân xúc chạm phát sanh thức do đó mà có cảm giác mịn thô. Ý duyên với pháp phát sanh thức biết rõ thiện ác trước đây.

Liễu tri thông đạt các pháp vô trụ nên không trụ cũng không thấy có pháp trụ. Tối Thắng nên biết, ngô ngã sở hữu các pháp, các pháp sở hữu đó vốn là thanh tịnh nhưng cũng không thấy thanh tịnh. Các pháp ngô ngã vốn không sở hữu nên không thấy có sở hữu.

Vô tự nó cũng là vô, cũng không thấy có pháp vô. Trí tuệ Bồ Tát ngộ rõ đều là vô sở hữu, Bồ Tát dùng trí tuệ ngộ rõ nên không nương tựa thân khẩu, không tự cao cũng không tự ti, từ khởi đầu đến kết thúc liễu tri thấu đạt tự nhiên.

Bồ Tát ngộ rõ nghĩa không tuệ như vậy thì thành tựu Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, thành tựu vô số pháp làm lợi ích cho số đông.

Bấy giờ các vị trong Pháp Hội, bốn bộ chúng và tám bộ chúng quỷ thần ngồi trên tòa, tâm vô cùng hân hoan không thể tự chế. Mỗi vị đều khởi tâm cung kính dùng hoa hương, hoa ý, họa đại ý rải lên trên thân Đức Phật và trên các vị Bồ Tát đại đệ tử. Tất cả đều sắp hàng trụ trên hư không, cử tấu âm nhạc tự nhiên.

Lại có Chư Thiên đứng hai bên trên hư không phát ra âm thanh tự nhiên vang động, đều tán thán: Chúng con nay được nghe pháp mà từ xưa chưa từng có. Thế Tôn đã vì các Bồ Tát giảng luận pháp yếu không vô khiến cho hành vi của thân, khẩu, ý đều kiên cố. Trước kia, trong vườn Lộc Dã, Thế Tôn đã vì Chư Thiên và người đời chuyển pháp luân nhưng không nói hết tất cả.

Nay chúng con nghe Như Lai giảng pháp không vô, không sanh, không diệt, tối đệ nhất nghĩa, bậc nhất ở đời, không thể xưng lường. Chúng con từ thuở xưa nghe pháp như chưa từng nghe pháp như vậy.

Lành thay! Thế Tôn đã làm cho tâm chúng con mãi mãi không hề do dự, lưới nghi đều trừ sạch, không còn phiền não, oán hận buộc ràng.

Khi ấy Thế Tôn bảo đại chúng: Bậc Tuệ giải Bồ Tát vì tất cả chúng sanh, tâm không lìa bỏ các pháp căn bản, huống chi lại lìa bỏ pháp không vô. Việc đó không thể có. Bồ Tát tu học không đúng khởi ý sanh niệm thị phi. Nếu không có niệm chấp trước với các pháp thì pháp ấy thật sâu xa không thể nghĩ bàn.

Người tu tập có trí tuệ yếu kém do không dùng tuệ để quán xét nên theo bốn pháp điên đảo mà khởi ấm cái, do chấp ấm cái giữ gìn trong tâm nên lại sanh buộc ràng với mười hai duyên, mười hai duyên đã sanh thì cùng thọ lãnh sáu mươi hai kiến.

Do khởi thọ lãnh sáu mươi hai kiến nên lại cùng hợp với tất cả các cấu trần lao. Như vậy Bồ Tát luôn phải tư duy, không cùng đồng xứ cũng không ly xứ. Từ si đến tử, tâm ý người thế gian đều khởi niệm loạn tưởng.

Nếu thấy người tinh tấn thì tâm không kính mộ, thấy người giải đãi cho là không khác với người không lười biếng khinh mạn, có người phụng trì giới lại cho là không khác với người không trì giới. Thấy người hủy giới thì bảo là ý bình đẳng vô nhị.

Tâm luôn nhẫn nhục thì cho là sân hận đưa đến ác đạo. Nhất tâm bất loạn thì cho là không khởi các tưởng. Bồ Tát dùng trí tuệ nhổ bỏ khổ đau khiến chúng vĩnh viễn không còn, luôn phải xa lìa tất cả các niệm, suy nghĩ lánh xa việc thế gian đó.

Việc thế gian đó là gì?

Đó là nói năm ấm, sáu suy, bốn đại, bốn họa hoạn, mười tám pháp bổn trì, mười hai nhân duyên. Là các pháp tâm không cùng chúng tương ưng. Đó gọi là pháp thế tục.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Nếu có Bồ Tát trong ba đời thực hành bố thí cũng chẳng tư duy về thọ báo của đời quá khứ, không nhớ nghĩ tài vật đã bố thí trong đời quá khứ, cũng không nhớ nghĩ người nhận vật thí ở đời quá khứ, không nhớ nghĩ nơi chốn đã bố thí trong đời quá khứ.

Không nhớ nghĩ chủng tánh, phòng nhà, nơi cư ngụ. Không nhớ nghĩ rằng sanh ở nhà đó, tên đó cũng không nghĩ rằng thuở đó ta bố thí nên nay mới được quả báo, nếu nay tạo phước thì hậu báo thù thắng bội phần.

Bồ Tát như thế là không thành tựu, là rơi vào biên tế, là ở trong cõi ma, là đoạn dứt Phật chủng, hoàn toàn không đến được đạo vô thượng chánh chân, thành Tối Chánh Giác.

Sở dĩ như vậy là do có tưởng chấp trước. Người tưởng chấp bố thí thì chẳng đạt quả chân thật. Lại nữa, nếu Bồ Tát nghĩ nhớ bố thí ở hiện tại và tương lai thì luôn phải hộ trì tâm, không có các loạn tưởng.

Hoặc có khi Bồ Tát bố thí cho người nghèo thiếu y phục, thức ăn, giường chiếu đồ nằm, thuốc men trị bệnh, theo chỗ họ cần không trái.

Người muốn thành tựu Vô Thượng Đẳng Chánh Giác thì tỏ ngộ các pháp không, liễu tri thông đạt chúng là một, pháp không vô tướng, pháp không bất sanh, không tạo tác, không có hành động thí, không thấy thời gian đến cũng không thấy thời gian đi, dùng pháp tánh không quán rõ giới phẩm.

Tuệ phẩm, định phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát kiến tuệ phẩm, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều là không hình tướng. Thấy pháp giới như trong định quán pháp giới thì không chấp pháp giới.

Thấy Phật như trong định quán Phật thì quán Phật không chấp Phật. Phật là vô ngã cũng là vô sở sanh. Ý quán đạo, ý sáng tỏ. Ý quán pháp, ý sáng tỏ. Ý quán chúng sanh, ý sáng tỏ.

Tuệ quán mười ba hành vô lậu đó, mười ba pháp ở tương lai, quá khứ, hiện tại. Phật đã thấy rõ tất cả pháp giới, phân biệt các giới đó không qua lại, không thấy xuất sanh, pháp tự thường trụ. Cũng không thấy động, không thấy quay trở lại.

Tất cả chúng sanh tự khởi thức tưởng, có người không tin mà chấp thủ sự biến hóa của pháp giới. Tam tràng thanh tịnh, tu Như Lai thất, tu tập vô số pháp không cứu cánh, lời nói cũng khác nên lãnh thọ không đồng.

Bồ Tát muốn thanh tịnh tam tràng và ngũ nhẫn, hiện chuyển pháp luân không có tưởng ngăn ngại trước phải tu tập mười ba pháp quán vô lậu.

Này Tối Thắng, đó gọi là trí tuệ vô ngại, tuệ căn vô ngại của Đại Bồ Tát vì chúng sanh nên thị hiện tên gọi, danh hiệu pháp giới vô lượng vô hạn không thể nghĩ bàn, đều là trí lực phương tiện khéo léo khó sánh.

Bấy giờ Tối Thắng lại bạch Phật: Thế nào là Bồ Tát nhập định tam muội, tu tập trí tuệ phương tiện khéo léo nhiếp trì mà không loạn?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Khi Bồ Tát nhập định vô trước, thân khẩu ý giáo không bị ngăn ngại, quán các Cõi Phật như thấy viên ngọc trong lòng bàn tay, giáo hóa chúng sanh cũng không có tâm chấp trước, phóng ánh sáng lớn hướng đạo tất cả mà chuyển pháp luân Phật lực vô ngại.

Bồ Tát hoặc lấy Bồ Tát làm quyến thuộc, dùng Phật trí tự trang nghiêm thân như đeo ngọc anh lạc, trụ như Phật trụ, dạo đến các Cõi Phật như Phật đã đi, thanh tịnh các cõi, dùng sức độ hóa của Phật mà độ thoát cho chúng sanh ở các cõi ấy. Vì tâm phát thệ nguyện dõng mãnh giáo hóa chúng sanh nên dùng Phật trí dạy người.

Này Tối Thắng, đó là định ý tam muội mà Chư Phật đã thể nhập. Bồ Tát du hành giáo hóa không thể nghĩ bàn, không sợ hãi, không bị nạn nguy khốn, nghe pháp không nhàm chán, tâm không thoái chuyển cũng không mệt nhọc, không bỏ pháp đáng quy ngưỡng đọa vào pháp khác.

Vì sao?

Bởi vì vị Bồ Tát ấy ở trong các pháp chí ý rộng lớn. Tâm hoằng thệ không thể phá hoại, phát tâm tu tập đến tận cùng nguồn cội chánh pháp của Phật, hộ trì chúng sanh không rời bỏ, hiểu rõ chúng sanh là không, các pháp cũng như vậy.

Các pháp là không, tánh đạo cũng thế, khéo quán sát con đường tấn thoái quan lại của chúng sanh, dùng tâm đại từ biến khắp tất cả, không sai trái với sở hành, pháp tắc của Chư Phật ba đời, đều thành tựu pháp vô tướng.

Vì sao như vậy?

Cũng như một nam tử dùng viên Như Ý bảo châu treo giữa không trung, người xem thấy không ai không thích, màu sắc vi diệu chiếu khắp không ngăn ngại. Vị đó không tự nói ta có ánh sáng chiếu khắp.

Bồ Tát Đại Sĩ cũng như vậy, dùng tâm bảo châu miệng nói ra lời trí tuệ, tất cả ánh sáng trí tuệ chiếu khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới. Bồ Tát cũng không tự nói ta nay có ánh sáng trí tuệ chiếu soi.

Vì sao?

Đó là vì Bồ Tát vì chúng sanh kia chứ không vì tự thân, mong cho chúng sanh đến cửa giải thoát, dùng thánh ấn của Phật mà ấn khả cho họ. Bồ Tát tịnh các Cõi Phật, vì các chúng sanh mà hộ trì khiến họ lìa bỏ tất cả niệm.

Mắt trí tuệ của Bồ Tát không vật nhỏ nào không thấy, thấu tỏ nguồn gốc sanh tử, tám pháp công đức của quá khứ, vị lai, hiện tại, thông đạt lậu tận và biết rõ diệt tận, điều mà các vị La Hán, Duyên Giác không thể liễu tri.

Bồ Tát ngộ rõ pháp tánh sở giác ảo hóa như tia nắng giữa trưa, như đọt chuối, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ảnh trong gương, như bóng Trăng trong nước, như bọt nước, như cảnh trong mộng đều là không chân thật. Thân năm ấm này là khổ, không, phi thân vô ngã. Do bốn đại hợp thành.

Bồ Tát lại phải tư duy sáu xứ: Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức trong Ba Cõi Dục, Sắc và Vô Sắc đều là cõi chết. Niết Bàn, pháp thân mới là cõi Phật. Ngộ rõ cõi sanh tử và pháp Niết Bàn là một chứ không phải hai cũng chẳng phải nhiều.

Bốn đại, ngô ngã cũng như vậy. Ngô ngã là không, các pháp cũng không. Các phá là không, sáu pháp tư niệm cũng như vậy, không rơi vào kiến điên đảo, không trụ nơi sanh tử, lại cũng không nghĩ nhớ, chấp thủ pháp trung đạo đã chứng đắc.

Đó gọi là Bồ Tát ngộ rõ sâu sắc pháp yếu, pháp độ người không hư dối, pháp thọ dưỡng không hư dối, an ổn trụ trong đạo mà không tổn giảm. Lại có Bồ Tát dùng bốn đẳng tâm quán sát sâu xa sanh tử không có nguồn cội tận cùng, dùng tài vật cứu giúp chúng sanh rồi khuyến khích hướng dẫn họ.

Bậc Bồ Tát đại bi mắt nhìn đến đâu đều thành bảo vật. Núi, sông, đá, vách, cây cỏ, mầm mộng đều là bảy báu. Lúc ấy Bồ Tát quán sát chúng sanh có người chấp khổ liền vì họ nói năm ấm là khổ, là già, là không chân thật. Chấp trước khổ tập theo sắc khởi, diệt tập thì thành đạo. Nghĩa của khổ rất nhiều. Tập là nguồn gốc. Hai pháp này diệt tận mới gọi là đạo.

***