Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI BẢY

PHẨM BIỆN TÀI
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: Như thế nào là Bồ Tát đầy đủ các đức đoạn trừ dục vọng của chúng sanh, làm sung mãn tất cả chúng sanh khiến họ không còn hiềm hận?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy tư ghi nhớ pháp này. Ta này sẽ vì ông khéo phân biệt điều đó. Bồ Tát từ sơ phát tâm đến khi thành Phật cần phải trang nghiêm thanh tịnh Đạo Tràng, phóng ánh sáng lớn chiếu soi cảnh giới đó khiến nơi u tối đều được soi sáng.

Người thấy ánh sáng đó tâm không còn sợ sệt, không còn nạn sợ hãi, tâm vô cùng vui thích, hoan hỷ gấp bội, tăng trưởng công đức, không lìa bỏ hạnh thanh tịnh, tự tịnh hạnh của mình tu tập đạo vô thượng khiến nghiệp công đức không thể cùng tận, trí tuệ vô hạn.

Bồ Tát thực hành pháp cũng không sai lệch, thực hành pháp Bồ Tát thừa cũng không giới hạn. Cảnh giới của Bồ Tát không thể nghĩ bàn, chẳng phải cảnh giới La Hán, Bích Chi Phật có thể tính lường.

Pháp độ sanh của Bồ Tát cũng không sai lệch, thành tựu các đức cũng không bờ mé. Tâm hạnh thanh tịnh của Bồ Tát không rời bỏ hoằng thệ. Bồ Tát nói pháp giải thoát chỉ rõ đưa đến cửa đạo.

Muốn luận bàn về đầu mối các pháp của Bồ Tát thì không thể được. Đại Bồ Tát từ vô số kiếp mới được là Bồ Tát, sau đó mới thành đạo Bồ Tát. Có người đến hầu cận, Bồ Tát vì làm tăng trưởng lợi ích nên khuyến khích họ phát tâm thành tựu đức Bồ Tát.

Danh tiếng Bồ Tát truyền xa, mọi người nghe danh tiếng đều đến để hầu hạ, ngày đêm cúng dường. Bồ Tát muốn làm ruộng phước tốt cho hậu thế, nếu có chúng sanh trông thấy Bồ Tát, Bồ Tát liền nói pháp vô thượng trí cho họ.

Người nghe pháp tâm không khởi niệm chán đủ. Bồ Tát giảng rộng trí tuệ sáng, không hủy phá pháp tánh. Vì thế nên chúng sanh nghe pháp vâng thọ chánh giáo tăng trưởng trí nghiệp bội phần. Bồ Tát giảng dạy chánh pháp không cùng tận.

Bậc Đại Bồ Tát trụ trong tam muội này thì có thể truyền bá rộng rãi các công đức lành. Vì tâm ý rộng lớn vô hạn lượng không thể tính kể nên Bồ Tát luôn nghĩ đến bố thí, tùy theo nhân duyên thuở xưa của mình mà nhập chánh định tam muội rồi lại từ định khởi, tự phản tỉnh quán pháp tánh.

Do tam muội đó nên biết cảnh giới tam muội, phân biệt vô số tam muội: Định ý quán tam muội, Quảng phổ quán tam muội, Vô dục quán tam muội, Tướng quán tam muội, Sở hiện quán tam muội, Oai nghi quán tam muội, Ỷ quán tam muội, Niệm quán tam muội, Đẳng quán tam muội, Hỷ quán tam muội, An ổn quán tam muội, Hộ quán tam muội, Xuất yếu quán tam muội.

Tập khí đã sanh hay chưa sanh đều xả tương ứng với tâm hân hoan trong khi thiền định. Bồ Tát tuy nhập các loại định nhưng không nhiễm chấp định. Tối Thắng nên biết, ví như Cung Điện của Đại Long Vương A Nậu Đạt đều do bảy báu tạo thành.

Suối A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn, nước chảy ra ở bốn cửa đều êm ả không làm tổn hại đến sự sanh trưởng của cây cỏ.

Nước suối trong trẻo như màu hư không. Khi ấy bốn con sông từ bốn cửa chảy ra hướng về bốn phương đều quy tụ về biển.

Bốn con sông ấy, sông thứ nhất tên Hằng Già từ miệng voi tuôn ra, sông thứ hai tên Tư Đầu từ miệng Sư Tử tuôn ra, sông thứ ba tên Tư Đà từ miệng bò tuôn ra, sông thứ tư tên Bà Xoa từ miệng ngựa tuôn ra.

Bốn con sông lớn ấy từ bốn cửa miệng tuôn chảy ra, đi về bốn phương rồi quy tụ về bốn biển. Sông lớn Hằng Già theo thân voi bằng xa cừ báu tuôn chảy nước. Sông lớn Tư Đầu theo thân Sư Tử bằng kim cương báu tuôn chảy nước.

Song lớn Tư Đà theo thân bò bằng mã não máu tuôn chảy nước. Sông lớn Bà Xoa theo thân ngựa bằng ngọc báu lưu ly xanh tuôn chảy nước. Bốn loại báu ấy đều là vật báu Cõi Trời chẳng phải vật báu cõi người.

Bốn con sông lốn đó, mỗi sông lúc mới chảy ra rộng một do tuần. Khi chảy ra, mỗi con sông đều tuần tự chảy lặng lẽ không tiếng động. Mỗi con sông lớn đều chảy quanh suối thần về phía phải bảy vòng rồi đổ hết ra biển.

Khoảng cách giữa bảy vòng là một do tuần, ở khoảng giữa đó mọc vô số loại hoa sen, hoa sen Ưu Bát, hoa Bát Đầu Mâu, hoa Tu Kiền Đề, hoa Mãn Nguyện Kiền Đề. Các loại hoa báu quý hiếm đều mọc trong đó, lại tỏa ra các mùi hương vi diệu xông ướp.

Sắc hương của các loại hoa đó đều thơm đẹp. Vô số các vật báu tự phản chiếu ánh sáng với nhau, khiến người trong thấy xem không chán đủ. Các loại vật báu hiếm bên trong bên ngoài tự phản chiếu ánh lấp lánh với nhau hừng sáng trong phạm vi một do tuần, như ngọc ma ni phát ánh sáng khắp nơi.

Trong khu vực bảy vòng chảy đó có các loại chim lạ thường cùng nhau cất tiếng hót buồn thương lẫn vui sướng. Lại có trăm loại cây cối, cỏ thuốc thần kỳ, mùi hương theo gió la xa man mác đến tận chỗ các cửa sông.

Cung Điện của Long Vương A Nậu Đạt về bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc ngang rộng năm mươi do tuần toàn dùng bảy thứ báu để trang hoàng chạm trổ. Lại có vô số ngọc ma ni và báu vật màu sắc khác nhau trang hoàng nội cung, trên hư không cũng giăng mắc đầy ngọc báu ma ni để làm ngày, đêm, sao Trời. Trong cung dùng toàn danh mộc ngưu đầu chiên đàn.

Ở trong Cung Điện ấy, một ngày ba thời mưa tuôn xuống các loại hương hoa: Hoa sen Ưu Bát, hoa Câu Mâu Đầu, hoa Phân Đà Lợi, hoa Tu Kiền Đề, hoa Mãn Nguyện Kiền Đề. Vô số loại vật báu làm thành Cung Điện, ánh sáng phản chiếu với nhau luôn sáng rực. Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn rồi từ bốn cửa miệng chảy về bốn biển, Đại Bồ Tát cũng vậy, đắc được bốn con sông pháp biện tài không ngăn ngại, pháp diệt bốn đạo đều quy tụ về biển trí.

Như Sông Hằng Già từ cửa miệng voi bằng chân bảo xa cừ tạo thành chảy ra nước xuôi về biển, Đại Bồ Tát cũng như vậy, từ pháp thanh bạch miệng nói ra vô lượng nghĩa, hoàn toàn là lời giảng giải nghĩa lý sâu xa trong pháp bí tạng của Như Lai, khiến cho mỗi pháp đều có tên gọi, giảng rõ pháp vị, thắp sáng đuốc trí tuệ, độ chúng sanh đều quy về biển vô biên trí.

Ví như sông lớn Tư Đầu dùng chân bảo kim cương tạo thành thân Sư Tử, từ miệng Sư Tử nước chảy ra biển, bậc Đại Sĩ Bồ Tát cũng như vậy, biện luận giảng rộng pháp kim cương của Phật, hộ trì chúng sanh khiến họ được thông tỏ rõ ràng, giữ gìn trí kim cương xuôi về biển vô ngại.

Như sông lớn Tư Đà dùng mã não tạo thành thân bò, từ miệng bò tuôn chảy ra biển, Đại Bồ Tát cũng như thế, biện giải giảng luận nghi vấn cho người khiến họ vĩnh viễn không còn tâm do dự, cũng làm cho chúng sanh không còn đấu tranh kiện tụng, theo căn cơ báo ứng mà phân biệt nghĩa lý khiến hạnh của chúng sanh loại thuần thục, đều độ cho tâm họ quy hướng về biển không có duyên chấp trước.

Cũng như sông lớn Bà Xoa dùng lưu ly xanh tạo thành thân ngựa, từ miệng ngựa nước tuôn chảy ra biển, Đại Bồ Tát cũng như vậy, đắc biện tài vô tận, tư duy các pháp trong suốt ức trăm ngàn kiếp thị hiện mà không cùng tận, dùng pháp lành hộ trì thân tâm đưa đến thiện đạo khiến người tuân thủ cấm giới đều quy về biển Phật đồng một vị.

Như bốn con sống lớn kia chảy về bên phải quanh suối A Nậu Đạt bảy vòng hướng ra bốn phương rồi quy tụ về biển, Bồ Tát Đại Sĩ cũng như vậy, thân hành thành tựu cũng không nghịch hướng, khẩu hành thành tựu cũng không nghịch hướng, ý hành thành tựu cũng không nghịch hướng, ý chí tu tập lấy trí tuệ làm đầu.

Như bốn con sông kia kia hướng ra bốn phương rồi quy về biển, Bồ Tát Đại Sĩ cũng như thế, nương bốn trí tuệ biện tài hướng ra bốn phương.

Khi ấy Bồ Tát phải quán tất cả phương, nơi Chư Phật trụ để phụng sự lễ bái, không mất oai nghi, lại phải hiện ánh pháp quang rực rỡ của tất cả Chư Phật, giữ gìn pháp tổng trì để không quên mất. Bồ Tát lại phải hiện các trí độ, đầy đủ bổn hạnh Bồ Tát. Lại phải thể hiện tâm đại từ bi, ở chỗ chúng sanh hiện chuyển pháp luân.

Như bốn con sông chảy quanh A Nậu Đạt bảy vòng, trong khu vực giữa các vòng đó có các loại hoa: Hoa sen Ưu Bát, hoa Câu Mâu Đầu, hoa Phân Đà Lợi, hoa Tu Kiền Đề, hoa Mãn nguyện kiền đề và các loại hương của hoa xông ướp bốn phương, Đại Bồ Tát cũng như vậy, từ sơ phát tâm đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian đó hóa độ hướng đạo cho chúng sanh chưa được giáo huấn.

Nói pháp khuyến tấn họ đạt đến bất thoái chuyển, vì họ giảng nói pháp chánh định từ ức trăm ngàn kiếp cũng không mệt mỏi, còn một người chưa độ xong thì không bỏ hạnh nguyện.

Bồ Tát thanh tịnh Cõi Phật, làm nghiêm trang nơi an trụ, nhập Sư Tử bộ định ý tam muội, tâm ý tinh tấn hướng về cội dạo thọ như kim cương mà không bị nạn.

Như trong khoảnh đất của bảy vòng chảy quanh suối A Nậu Đạt sanh ra bảy cây báu để tự trang nghiêm, hoa quả mùi thơm không thể lường, Đại Bồ Tát cũng như vậy, trang nghiêm Cõi Phật, thanh tịnh Quốc Độ, hoa sanh ra từ ba mươi bảy cội đạo thọ, tâm giác quán đạo, tư duy chánh pháp.

Như Cung Điện A Nậu Đạt ngang rộng năm mươi do tuần thanh tịnh không tỳ vết, không có bụi trần cấu tạo, Đại Bồ Tát cũng như vậy, tâm đạo thanh tịnh không tỳ vết, nội tâm có các loại gốc thiện công đức, đầy đủ vô lượng pháp môn định ý.

Ví như suối A Nậu Đạt dùng danh mộc ngưu đầu chiên đàn và các loại tạp báu để làm tường vách, Đại Bồ Tát cũng như thế, niệm đạo tâm nên đạt được mười ức trăm ngàn loại trí, thệ nguyện không khuyết giảm, tâm thông đạt bổn vô, tu tập thành tựu tâm thông đạt, thành tựu trí nghiệp các căn bản thiện đều thanh tịnh.

Giống như nội cung A Nậu Đạt toàn lấy chân châu hổ phách để làm nền phát ra vô số loại ánh sáng chiếu khắp nơi, Đại Bồ Tát cũng như vậy, nhập trí cực vi, tâm ý độ sanh không thể nghĩ bàn, cứu độ chúng sanh ra khỏi đầm buồn khổ, dùng vô số loại trân bảo, ngọc anh lạc để tự trang nghiêm cũng không hủy hoại thể tánh pháp giới, trụ nhà giải thoát của Như Lai, tâm ý thú hướng trọn không thoái chuyển.

Như Long Vương A Nậu Đạt che chở bảo hộ cho các rồng nhỏ, làm cho kẻ hoảng sợ không còn sợ hãi. Các rồng thần tùy tùng đều có oai đức, các vua rồng nhỏ ở biển đều đến để quy phục, Đại Bồ Tát cũng như vậy, che chở bảo hộ cho tất cả chúng sanh hữu hình có tâm lo sợ, tùy thời giảng dạy khiến họ không còn oán hận.

Với nội giới hay siêu việt giới, tâm đều bình đẳng như hư không. Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn sông, chảy đến các sông ở khắp Cõi Diêm Phù, đến tận các hang núi nơi chướng ngại rồi đổ ra biển, những nơi nước chảy qua đều được thấm nhuần.

Đại Bồ Tát cũng như vậy, nương sông bốn trí đưa Chư Thiên, loài người, các loại ma như Thiên Ma, Chư Thiên Thích, Phạm và nhân, phi nhân hướng đến biển đại trí, phát tâm đạo vô thượng chánh chân, mười lực vô sở úy, mười tám pháp bật cộng, đến cội đạo thọ tâm không thoái chuyển.

Bốn con sông trí đó, một là sông nguyện trí vì luôn thệ nguyện độ chúng sanh cũng không nương tựa, không bị chấp trước nội thân.

Hai là sông cụ túc trí độ vô biên. Bậc Bồ Tát thanh tịnh đạo nhiếp tất cả giới, qua lại tuần hoàn mà không chấp trước, kiến thức vô tận cũng không thể tận, từ trí ba đời diễn nói nghĩa vô thường, khổ không, phi thân vô ngã.

Ba là sông định ý trí tuệ của Bồ Tát dùng vô ương số định để tự trang nghiêm dạo qua Quốc Độ của Chư Phật mười phương lễ bái cúng dường Chư Phật Thế Tôn, diễn nói biển không nguồn cội của Chư Phật.

Bốn là sông đại từ bi làm cho chúng sanh loại an lập tâm từ bi không thoái chuyển, nhổ tận tất cả khổ để chúng sanh không còn phiền não nóng bức.

Bồ Tát lại dùng vô số phương tiện thiện xảo hướng đạo cho họ, khiến họ tinh tấn không còn tâm luyến tiếc, tích chứa nhiều của báu như biển ở mười phương. Người có duyên chấp trước thì biết hướng quay về.

Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn rồi đều quy về biển vô cùng tận không thể nghĩ bàn, Đại Bồ Tát cũng thế, được tăng thượng thệ nguyện rộng lớn, thành tựu nguyện trí tu hạnh Bồ Tát, trí tuệ quán pháp cũng không thể tận, thành vô thượng đạo mà không trệ si cũng biết pháp Phổ tập định ý của Chư Phật, lấy sự an lạc của Phật làm niềm vui.

Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn sông lớn. Mỗi sông phân làm năm trăm nhánh. Năm trăm nhánh của mỗi sông tất cả đều chảy ra biển, không nhiễu loạn làm hại chúng sanh. Đại Bồ Tát cũng như vậy, nương theo trí tuệ hoằng thệ chí không dao động, tu hạnh phổ tế, từ mẫn với tất cả chúng sanh, hiện hữu tướng.

Vô tướng ngộ rõ tất cả pháp, tu tập trí vô ngại, không đoạn pháp bổn, giáo hóa khiến chúng sanh được giải thoát, trụ nơi vô ngại. Cũng như trong khu vực của bảy dòng chảy quanh suối A Nậu Đạt sanh vô số loại vật báu quý hiếm, ánh sáng phản chiếu nhau sáng rực.

So với ánh sáng mặt trời, ánh sáng ấy trăm lần hơn, ngàn lần hơn, chiếu khắp nơi không nơi nào không được chiếu sáng. Kẻ sĩ có mắt thấy năm sắc vàng chói của cung A Nậu Đạt như mặt trời trên không, không có nơi nào không được chiếu sáng, mỗi hình chất tự được ánh sáng chiếu soi nên không bức bách nhau.

Các vật báu chạm vào nhau phát ra vô số âm thanh thật nhẹ êm, nghe không nhàm chán. Đại Bồ Tát cũng như thế, trụ pháp giới tự tại định ý quán mỗi lỗ chân lông có vô số vô lượng ức trăm ngàn Đức Như Lai và đệ tử Bồ Tát trong Cõi Phật, bao nhiêu chúng hội nghe pháp vị, thọ trì ghi nhớ không quên, ngày đêm tụng đọc.

Như cứu người chìm đắm chốn vực sâu, thân Như Lai biến hiện khắp các Thế Giới không thể nghĩ bàn, không thể đo lường. Bồ Tát lại đến gần gũi các Thế Giới của Chư Phật lễ bái, cúng dường, nghe pháp vị. Bồ Tát nhập định ý suốt trăm ngàn kiếp cũng không thấy dài ngắn, cũng không thấy lớn hay nhỏ.

Bồ Tát quán thấy trong mỗi lỗ chân lông có Quốc Độ, thành ấp của Chư Phật Như Lai, bao nhiêu chúng đệ tử và chúng sanh có vô số loại hình tướng, ngôn từ khác nhau, qua lại tùy theo ý niệm. Mỗi người tùy theo chí nguyện cùng nhau vui vẻ. Bồ Tát không thấy có bức bách cũng không thấy khoan dung.

Vì sao như vậy?

Nếu có Bồ Tát nhập pháp giới định ý thì tâm vị ấy vi tế, khó thấy cũng không có hình chất, hành tích vô cùng nhỏ nhiệm, không thể lấy gì để ví dụ, sanh sanh tự hoại cũng không tự biết. Cảnh giới tam muội không thể nghĩ bàn.

Cảnh giới của tư duy trong thiền định không thể nghĩ bàn. Trụ xứ của Chư Phật cũng không xứ sở, hiển bày oai nghi không thể cùng cực, khó làm khó thấy của Phật. Bồ Tát trụ hoàn toàn trong cảnh giới đó, không xả bỏ hạnh Bồ Tát.

Vượt các cõi ma và tâm không kiên cố, an trụ nơi vô vi, đại đức thanh tịnh, đầy đủ mười lực lớn của Như Lai, mong cầu nghiệp vô thượng vô hạn, tu hành nghĩa sâu xa vi diệu của chánh pháp mà không nghĩ là khó.

Đại Bồ Tát cũng như thế, theo tâm ý của mình trong khoảnh khắc một niệm từ tam muội khởi, biết việc ba đời, suy tư có thể phân biệt đường thiện, đường ác. Ở trong các pháp giới được tự tại, không nương tựa bên trong cũng không nương tựa bên ngoài, suy tư tìm kiếm điểm khởi đầu và kết thúc của các pháp đều không thấy đầu mối.

Chúng đều không có xứ sở, cũng không thấy tưởng. Đại Bồ Tát vì vượt qua các tưởng nên biện biệt các nghĩa lý, dạo Cõi Phật lễ bái, cúng dường không có tâm chán đủ, thể nhập các pháp giới, tư duy phân biệt tận nguồn cội của pháp giới, không trụ vô vi cũng không trụ biên tế.

Tu Nhất thiết trí mà không chấp trước trí. Tuy có qua lại mà không thấy có qua lại, quán trí như ảo hóa nhưng thật không có ảo hóa, quán chúng sanh đẳng phần cũng như thế, suy tư tìm kiếm căn bổn của chúng thì không thể đạt được giới hạn, thanh tịnh các Thế Giới mà không thấy có pháp tịnh.

Tuyên giảng cho chúng sanh khổ do duyên gì sanh, do duyên gì khởi nhưng khổ, không, phi thân vô ngã, tuổi thọ của con người đều vô sở hữu.

Vì có vô số hiện tượng vô thường biến hóa nên không trụ sanh tử, không chấp trước Niết Bàn, siêu việt tất cả kiếp, vượt qua cõi chết, quán các tướng mạo ý không mê hoặc.

Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo theo chân lý đạt đầy đủ các trí, rốt ráo thanh tịnh, chí không thay đổi, quán các Thế Giới và chúng sanh có kẻ qua lại sanh tử, có bậc không còn qua lại sanh tử đều độ thoát cho họ, khiến trí tuệ của chúng sanh không giảm thiểu, với tất cả pháp giới oai nghi của thế gian đều tuần tự đạt các pháp không mất thứ lớp.

Bồ Tát quán công hạnh tích chứa của Phật cũng không chán đủ, nương theo Pháp Tạng của Chư Phật đạt được trân bảo lớn, phương tiện thị hiện các tam muội một cách vô ngại.

Bồ Tát thủ Hộ pháp tự nhiên như thế, với nghĩa cú của pháp sâu kín không bị ngăn ngại, tuyên nói đạo pháp không cùng tận, có trí tuệ lớn biện tài phân biệt từ ngữ, đạt pháp tổng trì diễn nói ra vô số loại bí tạng của Chư Phật. Bồ Tát đã lìa bỏ dâm cũng khiến chúng sanh không còn dâm, nộ, si.

Bồ Tát Đại Sĩ trong vô số kiếp thực hành quyền phương tiện, hiển hiện vô số loại đạo chủng, tùy loại chúng sanh giáo hóa khiến họ được giải thoát. Tất cả các pháp tự nhiên độ thoát mà không thấy tự nhiên. Vì độ kẻ chưa độ nên an lập tâm đại từ bi.

Với các chúng sanh cũng không thấy có tưởng chúng sanh. Giảng nói pháp quán hơi thở, khi có hơi thở ra, khi có hơi thở vào, liễu tri pháp bổn tự nhiên của Thế Giới, biết pháp tự thường trụ. Chúng sanh tu tập tự khởi thức chấp trước cho đó là không định, không thấy chuyển động cho là pháp lưu chuyển.

Bồ Tát tuy hóa độ chúng sanh mà không thấy có hóa độ thanh tịnh ba giới tràng, vào nhà Như Lai, với các pháp tưởng tâm đạt vô úy, nói pháp thanh tịnh, chuyển pháp luân không thể hủy hoại.

Tâm đạo hưng thạnh hoàn toàn chẳng phải tâm của La Hán, Bích Chi Phật. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ Tát đắc pháp giới tự tại định ý tam muội, tăng trưởng lợi ích đại sự, lên địa vị Bồ Tát trọn không uổng phí công sức tu tập.

***