Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

 PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI BỐN

PHẨM DÕNG MÃNH
 

Bấy giờ Bồ Tát ở trước Đức Phật thưa: Bồ Tát mới phát tâm tu tập như thế nào mới không thể dứt đoạn?

Làm thế nào ý thức của Bồ Tát an ổn không thể xả ly?

Khi ấy Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Pháp mà Bồ Tát mới phát tâm phải học là không chìm đắm trong sanh tử, không sợ ngô ngã. Tuy ở quá khứ, tương lai, hiện tại cũng không sợ hãi thì có thể dõng mãnh phá tan tà kiến, vừa nghe pháp vị liền thành tựu tín căn, ý luôn hướng về pháp diệt tận, thường rời bỏ nghiệp thế gian.

Chỉ ưa thích đạo vô thượng chánh chân, tán thán học hỏi Kinh Điển, nghe không nhàm chán. Nếu gặp khổ hay vui không cho là mỏi mệt.

Vì sao?

Vì tâm Bồ Tát kiên cố không thể lay động, hoặc trải qua một thân, hai thân, ba thân đúng thời thì đạt được tam muội định ý chánh thọ của Như Lai, lại được tín thọ bất vọng tam muội, đạt được tưởng trì thọ quyết tam muội dần dần đạt đến Vô sở tùng sanh bất khởi pháp nhẫn.

Do đó nên nói Bồ Tát mới phát tâm sở hành của nội tâm không thể dứt đoạn. Bồ Tát chuyên tâm không chấp sắc tướng, không niệm là thường hay vô thường, có khổ có vui, có xấu có đẹp, có xa có gần. Cũng không nhớ nghĩ pháp quá khứ, hiện tại, vị lai.

Cũng không nhớ nghĩ ta sẽ thành Phật thống lãnh ba ngàn đại thiên cõi nước, không niệm hữu tưởng, không niệm sanh tưởng, trước tưởng, nhiễm tưởng, kết tưởng, tâm tưởng.

Vô lượng pháp môn, lãnh thọ diệu pháp đó thì không trở lại cũng không thấy có trở lại, không nhàm chán cũng không thấy nhàm chán, không đủ cũng không thấy đủ, không bỏ cũng không có bỏ, không khác cũng không có biến đổi, không tự nhiên hành nhưng chẳng phải không có hành.

Vì thế nên nói tự nhiên là pháp nhiếp trì hư không pháp giới. Bồ Tát tự thân trụ tâm hoằng thệ vô hạn lượng như thế, không nhàm chán, không họa hoạn cũng không thoái chuyển, hết lòng mong độ thoát tất cả chúng sanh.

Do Bồ Tát muốn độ tất cả chúng sanh để họ Bát Niết Bàn nên trụ mười bảy kiếp không xả ly, phân biệt các pháp hư tịch ba đời, các pháp không, các pháp vô ngã.

Vì sao?

Vì muốn chúng sanh từ bờ này sang bờ kia, Bồ Tát Đại Sĩ đến hư không giới dùng thiên nhãn quán sát thấy rất nhiều chúng sanh nương địa đại, nhiều chúng sanh trụ hư không giới, lại quán thấy chúng sanh ở hư không vô hạn lượng, nhiều không thể tính kể.

Vị Thiên Nhãn Bồ Tát ấy lại tư duy: Chỗ quán thấy của ta thật là huyền diệu sâu xa, từ bốn cõi thiên hạ quán đến núi Tu Di.

Trong đó có rất nhiều chúng sanh vô hình ở trên hư không chẳng, hay là có rất nhiều chúng sanh hữu hình?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Vị Thiên Nhãn Bồ Tát ấy do không thể biết chúng sanh vô hình nhiều ít. Vì thế nên chẳng phải cảnh giới đó. 

Nay ta sẽ dẫn dụ giải thích lại ý nghĩa này. Người sáng mắt phải hiểu rõ ví dụ này. Ví như bốn phương, tám hướng hư không và phương Trên, phương Dưới đều bình đẳng không có chỗ khuyết giảm. Tính đếm chúng sanh vô hình ở trong đó thì bằng với chúng sanh bốn thiên hạ.

Muốn biết số lượng thì từ số một đếm đến ức, lấy ức làm một. Lại từ ức ức đếm ngược lại ức làm một. Đếm như vậy cho đến bảy lần. Muốn biết hạn lượng của chúng sanh vô hình trên hư không thì con số như thế.

Đức Phật lại bảo Ngài Tối Thắng: Khi vị Thiên Nhãn Bồ Tát quán chúng sanh vô hình trên hư không thì cũng như người quăng số đá lớn ở bốn phương và phương Trên, phương Dưới đều bằng nhau, thật không thiếu sót. Vì vậy không thể biết được số đó.

Bồ Tát mới phát tâm từ sơ khởi học đến Bồ Tát vị phải độ chúng sanh tâm không lay động, phải biết không bị ma làm nhiễu loạn, dạo trong ba cõi tham vấn bậc thiện tri thức, nạn lo sợ cũng không phát sanh lại.

Nếu có Bồ Tát trụ ở pháp đó chí thành nhận lãnh cũng không lâu dài, phải thực hành phương tiện quyền xảo khuyến trợ họ phát tâm, hướng dẫn đến Niết Bàn, giảng dạy pháp quyết định diệt độ, lại giảng về pháp Tứ Đế mà Như Lai đã ấn chứng, phân biệt rõ ràng chỉ rõ con đường.

Nếu có chúng sanh không chịu tỉnh thức thì dùng vô số phương tiện để hướng đạo, chỉ rõ do si mê ngu hoặc của tập nên đưa đến khổ, phải đoạn ái dục ứng hợp với pháp vô trước thì được vượt đến Chánh Giác, có sự an tĩnh tịch nhiên của Hiền Thánh, chính là giải thoát. Gọi là giải thoát chính là giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết.

Vị ấy không chết cũng không bị chết, không thoát cũng không được thoát được giải thoát khỏi điều gì?

Không buộc, không ràng, không diệt, không sanh, không thành tựu, không có tu tập, không đạt được mới ứng hợp với chánh đạo. 

Chúng sanh mê mờ không biết khi nào giải thoát. Như Lai thương xót nên xuất hiện thế gian, ở những chỗ dạo đến đều làm Đạo Sư. Chúng sanh nghe pháp đạt tâm không thoái chuyển. Nếu có người hoan hỷ vâng giữ chánh pháp thì đạt được pháp nhẫn vô sanh bất khởi.

Bậc Bồ Tát mới phát tâm luôn niệm tư duy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phân biệt sáu suy xem chúng từ đâu sanh lại, từ đâu diệt mất.

Pháp tự sanh pháp, pháp tự diệt pháp, không thấy tà, không thấy chánh, không tạo tác, không thấy là ngã sở hay chẳng phải ngã sở, tự quán nương tựa tánh bên trong hay bên ngoài đều phải phân biệt.

Bồ Tát lại phải tư duy sắc, thống thọ, tưởng, hành, thức. Không thấy có sắc quá khứ. Sắc quá khứ không ở bên trong, không ở bên ngoài cũng không ở trung gian mà có thể đạt được.

Không có thống thọ, tưởng, hành, thức quá khứ. Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không ở bên trong, không ở bên ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt.

Không có sắc quá khứ trụ, không có sắc quá khứ chẳng trụ, không ở đây cũng không ở kia. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp quá khứ. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý quá khứ không ở trong, không ở ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt.

Không có ý tưởng tri diệt ở quá khứ, không ở trong, không ở ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tưởng tri diệt ở tương lai và hiện tại cũng như thế.

Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Bồ Tát Đại Sĩ dùng trí tuệ thần thông vô ngại đạo tính đếm tất cả công đức tuệ nghiệp của Chư Phật rồi nhân lên mười lần, trăm lần, ngàn lần, vạn lần cũng không bằng vị Bồ Tát mới phát tâm an lập một chúng sanh phát tâm vô thượng đạo, thành tựu nhất thiết trí, đầy đủ pháp của tất cả Chư Phật, đã đoạn vọng tưởng không còn nghi ngờ, Chư Thiên, người đời đều cung kính lễ bái.

Thông đạt các pháp là ảo hóa chẳng phải chơn thật, tất cả phương pháp tu tập pháp hữu hình để đạt đạo thì đạt được sức thần túc của Như Lai.

Khi đó Đức Phật ngồi trên tòa, mười bốn ức chúng đều khát ngưỡng đức thần túc của Như Lai, mong thấy Như Lai hiển bày oai lực biến hóa. Đức Phật biết tâm niệm của chúng hội liền ở trên tòa cao phóng ánh sáng lớn.

Các lỗ chân lông trên thân cũng phát ra ánh sáng. Mỗi lỗ chân lông phóng ra trăm ngàn ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có trăm ngàn ức dạ quang thần bảo điêu khắc tinh xảo đẹp đẽ bằng các loại báu.

Các loại hoa, tạp hương phủ trên đó. Bốn đầu góc của báu vật đều treo bốn viên ngọc anh lạc. Trên mỗi báu vật đều có trăm, ngàn, ức cành phướn. Mỗi bảo phướn có trăm, ngàn, ức Tòa Sư Tử bằng hoa sen tự nhiên.

Trên mỗi tòa đều có trăm, ngàn, ức màu sắc vi diệu đặc thù. Trong mỗi màu sắc có trăm, ngàn, ức ngọc báu ma ni trên những đóa sen.

Trên mỗi đóa sen lại có trăm, ngàn, ức các loại lọng báu đan xen. Dưới mỗi chiếc lọng có trăm, ngàn, ức Đức Như Lai nói pháp. Mỗi Đức Như Lai có trăm, ngàn, ức chim le le, ngỗng, oan ương vui đùa tự nhiên.

Khi ấy các Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác trên những đài báu đan xen ấy lại phóng trăm, ngàn, ức ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng lại có Hóa Phật. Mỗi Đức Hóa Phật đều nói về công đức mà vị Bồ Tát mới phát tâm đã tu tập, giảng pháp mười hai nhân duyên, vô thường, khổ, không, phi thân vô ngã đưa đến cửa Niết Bàn.

Trong mỗi cửa lại phát ra trăm, ngàn, ức pháp bất thoái chuyển, là pháp mà từ xưa chưa ai diễn nói, nay Đức Như Lai vì chúng sanh mà diễn nói, lại hiện ra thân tướng oai nghi thần túc biến hóa của Phật mà chúng sanh chưa từng được thấy, chưa từng được nghe, không thể nghĩ bàn, không thể diễn nói.

Lúc ấy các vị trong Pháp Hội vui mừng trước việc chưa từng có, thật kỳ diệu, thật đặc thù, tự nói: Chúng ta nay có phước nên mới có thể thấy thần túc biến hóa này.

Đức Phật dạy: Pháp này mãnh liệt, biến hóa ra vô tận Đức Như Lai, như pháp Như Lai tạng, không trụ chỗ trụ, không hình tướng, không căn bổn, đắc chỗ không đắc, đạt chỗ không đạt, thậm thâm, huyền diệu sâu xa, là thật chứ chẳng phải hư. Trí tuệ quảng bác, trừ bỏ ngu si cũng không phá hoại, thành tựu pháp giới.

Pháp của Chư Phật tương lai, quá khứ, hiện tại đều hiện tiền, mở bày lực của Như Lai làm tăng trưởng lợi ích cho các cõi Phật, là tâm ấn của Phật, xuất sanh đạo Bồ Tát. Ở trong pháp hiện tại pháp này là Vua của pháp tịnh nhãn, tuệ nhãn thanh tịnh, chủng tánh thuần thục.

Phật nhãn vô ngại, do tuệ nhãn biết phân biệt cú nghĩa mà khai mở pháp môn, làm cho thiện tri thức thành tựu đạo tâm, không hủy cảnh giới, không làm bại hoại chủng tánh. Vì tất cả chúng sanh mà che chở, bảo hộ khiến họ có chỗ an trụ, nếu ở trong chúng thì không bị nạn sợ hãi.

Pháp phương tiện thiện xảo không pháp nào không biến hóa. Danh tiếng, công đức đều thanh tịnh, không còn cụ mong cầu thọ bào thai. Trí nghiệp tăng thượng xua tan mây ấm cái phiền não.

Lửa trí tuệ rực cháy thiêu đốt khối si mê kết tụ, xiển dương chánh giáo, chấn hưng Đạo Tràng. Dùng từ, bi… bốn pháp đẳng tâm, trí tổng trì thẩm suy chân lý.

Quán chín pháp, sáu nghiệp, sức dõng mãnh không e sợ. Tín, niệm, tuệ, định thực hành, giáo huấn vô tận. Nhập định tam muội do đó quán mười phương, lễ bái, cung kính cúng dường Chư Phật.

Này Tối Thắng, đó gọi là tâm khó phá hoại của bậc Bồ Tát Đại Sĩ. Cũng như tánh không tự nhiên của Bồ Tát, người trí có mắt biết đó là không.

Không chẳng tự biết, nói ta là không. Bồ Tát thực hành pháp bổn cũng như vậy, độ hằng sa người, thậm chí còn hơn số hằng sa ấy, đưa đến cõi của Chư Phật, độ chúng sanh mà chẳng tính đếm bao nhiêu người.

Bồ Tát không tự nghĩ: Nay chính ta độ chúng sanh như thế đưa họ đến Niết Bàn vắng lặng vô vi.

Cũng không nói: Ta do quả báo nhân duyên đó sẽ thành tựu đạo vô thượng chánh chân. Bậc Bồ Tát mới phát tâm giữ tâm kiên cố, từ khi mới phát tâm cho tới khi đến Đạo Tràng, ngồi dưới cội thọ vương hàng phục chúng ma, công đức phước nghiệp đã tu tập trong khoảng thời gian đó luôn vì chúng sanh, không tự vì mình.

Ví như hư không phủ trùm tất cả không có gì lọt ra ngoài nhưng hư không chẳng tự biết, nói rằng ta là hư không. Thần đức, ánh sáng trí tuệ của Như Lai đều biến khắp, tiếp độ tất cả chúng sanh khiến họ thành tựu pháp nhãn. Không lìa, không buộc, tất cả các pháp không thể phá hoại.

Không nhân, không ngã, dùng trí tuệ thông tỏ kiếm bén phương tiện quyền xảo. Chánh giáo mà Chư Phật sử dụng vô lượng công đức, trừ bỏ lưới si. Các pháp mà bậc Bồ Tát Đại Sĩ tu tập, công hạnh của Bồ Tát đều để đạt tam ma địa thanh tịnh, chẳng có không hay bất không.

Không cũng chẳng sanh, cũng chẳng sở hữu. Không nhân, không ngã, không thọ, không mạng cũng không thấy sanh, cũng không thấy diệt. Một mình, không bạn lữ, chẳng thể nghĩ bàn.

Không hủy cảnh giới, vô tưởng cũng không. Không sanh cũng không thấy sanh, cũng không thấy xuất. Không đi, không đến, không tạo tác. Trong  pháp giới vô lượng thành tựu nghiệp Đạo Tràng.

Không giới là vô biên, chẳng bị ràng buộc, vì chúng sanh nên tạo xứ sở là ngã sở, chẳng phải ngã sở, khởi tưởng ngô ngã. Bồ Tát giữ ý, nương theo căn bản thiện, vô lượng trí tuệ mà thanh tịnh đạo ấy, dùng trí tuệ trừ bỏ tâm ý cấu uế.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát nhập tịnh quán tam muội quán sát hằng sa chúng sanh mười phương ai tương ưng với pháp hành, ai tương ưng với trí hành, ai tương ưng với nghiệp hành. Nếu có chúng sanh phù hợp lãnh thọ pháp thì Bồ Tát phải giảng nói hai mươi lăm pháp.

Hai mươi lăm pháp đó là gì?

Các pháp vô tướng, các pháp vô hình, các pháp nhẫn, các pháp tưởng, các pháp vô căn, các pháp cảnh giới bất khả đắc, các pháp vô sở thủ, các pháp bất nhị nhập môn, các pháp vô độ, các pháp không thể đoạn, các pháp sâu xa không thể truy tìm, các pháp giác bất giác, các pháp lực không thể hoại, các pháp thành bất thành, các pháp không hủy mà hủy.

Các pháp vô thường trừ bỏ thường, các pháp không nhiễm ô, các pháp tịnh hạnh, các pháp tánh quán, các pháp vô lậu, các pháp đã trừ quá khứ, các pháp trừ bỏ lưới si, các pháp thọ ký trí tuệ vô sở tùng sanh, các pháp bổn vô không có tên khổ. Đó gọi là tu hành hai mươi lăm pháp thanh tịnh. Lại nữa, Bồ Tát thực hành tam nhẫn trí, quá trí, vô quá trí, không quá cũng chẳng phải không quá trí.

Thế nào là Bồ Tát tu hành quá trí?

Đó là trí không hoại pháp giới, biết rõ thân là Bổn vô, công hạnh tu tập của Chư Như Lai chẳng phải là trí tu tập của hàng Duyên Giác, La Hán. Bậc Vô quá trí dùng tuệ tăng thượng thông tỏ sự tu hành của các Bậc Hiền Thánh Duyên Giác chẳng phải là công hạnh của Đức Phật hay của các vị La Hán.

Không quá trí cũng chẳng phải không quá trí là trí biết rõ công hạnh tu tập của A La Hán chẳng phải là sự tu hành của Đức Phật và các vị Duyên Giác.

Quá trí là gì?

Tức trí biết rõ sở hành của Phật chẳng phải sở hành của hàng La Hán, Bích Chi Phật.

Khi ấy Bồ Tát trong khoảnh khắc khảy móng tay dùng trí tuệ suy nghĩ: Ta phái rộng độ vô lượng chúng sanh, tu tập vô biên vô hạn duyên tưởng trí nghiệp, thiền định kiên cố như Kim Cương không thoái chuyển. Tâm hoằng thệ của Bồ Tát vượt quá hơn La Hán và Bích Chi Phật. Đó gọi là quá trí, chẳng phải chỗ tu hành của hàng La Hán, Bích Chi Phật.

Vô quá trí là gì?

Là nói trí tu tập của Bậc Hiền Thánh Bích Chi Phật. Khi ấy Bồ Tát phát khởi tâm học tập, muốn thanh tịnh pháp giới, dẫn đạo chúng sanh, tuyên dương Phật Pháp, diễn nói tuệ cam lộ, vì đạo vô thượng mong cầu đến Đạo Tràng.

Nếu có chúng sanh đi thẳng một đường đến chỗ Bồ Tát, Bồ Tát đem đầu, mắt, tủy não, thành ấp, Quốc Gia, vợ con theo ý người đó muốn dùng vật gì đều bố thí cho họ, chỉ trừ cha, mẹ, sư trưởng. Bố thí như vậy mà không cầu quả báo. Như vậy một đời đến trăm đời, một kiếp đến trăm kiếp cũng không thấy có tài vật đã bố thí.

Bồ Tát suy tư: Vật đó là của ai, từ đâu sanh?

Vốn từ đâu lại?

Khi diệt trở về chỗ nào?

Hiểu rõ vật không có nguồn cội nên không thấy nhà cửa chỗ ở. Khi ấy Bồ Tát dùng không tuệ quán không thấy thân, không thấy vật, không thấy người cũng không thấy nơi chốn bố thí. Bồ Tát tích chứa công hạnh thù thắng lâu dài như vậy, tâm ý mong mau chóng thành tựu đạo vô thượng chánh chân, độ thoát chúng sanh, thanh tịnh Cõi Phật.

Do đó tâm Bồ Tát ưa thích nhàn tĩnh, thường trụ nơi chốn núi non, ý tưởng tịch tĩnh, chánh niệm luôn hiện tiền, nội tâm tự tư duy: Công đức xưa nay của ta đã đầy đủ, phải thành đạo Vô Thượng chánh chân, là Bậc Tối Chánh Giác. Nay Đức Phật xuất hiện ở đời có các tướng trang nghiêm thân, rộng độ chúng sanh đến bờ giải thoát. Khi nào bậc Đại Thánh nhập diệt độ nơi Cõi Vô Dư, sau đó ta sẽ tinh tấn thành tựu Phật Đạo.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Tâm niệm và hạnh nguyện của vị Bồ Tát ấy không trái nghịch. Như Lai trụ thế giáo hóa tất cả chúng sanh xong sẽ bát Vô Dư Niết Bàn. Khi chánh pháp diệt tận, ở thế gian một kiếp, hai kiếp cho đến trăm kiếp không có Phật.

Vị Bồ Tát ở chốn núi đầm phải tự trách: Than ôi! Ta thật hoang phí công sức. Đức Phật rời thế gian đã lâu, Tượng pháp diệt tận, chúng sanh không còn túc duyên nên tâm luôn bị phiền não.

Bồ Tát đi đến cội cây kinh hành quanh đó dùng móng tay vạch trên vỏ cây, tâm chánh trực trụ không xứ đột nhiên nghe âm thanh móng tay vạch vỏ cây tâm liền giác ngộ, thành đạo vô thượng chánh chân. Nhìn xung quanh không thấy người theo học đạo, vị ấy ẩn hình tướng không chuyển pháp luân.

Vị ấy cũng như người đời, có tâm phân biệt của con người. Đó gọi là sự tu tập. Vô quá trí của Bậc Hiền Thánh Bích Chi, chẳng phải là Phật, La Hán.

Thế nào là không quá cũng chẳng phải không quá trí?

Là trí tu tập của La Hán, chẳng phải của Đức Phật và Bích Chi Phật. Khi ấy vị Bồ Tát từ xa xưa tích chứa công hạnh, siêng năng khổ nhọc mong đắc đạo vô thượng chánh chân, thành bậc Tối Chánh Giác. Vị ấy thực hành bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.

Hoặc bố thí đầu, mắt, tài sản, cõi nước, vợ con, người hầu. Có người đến xin đều cấp cho không trái ý người. Bồ Tát cắt thịt, máu tuôn ra nhiều như nước bốn biển, xương cốt bố thí trải khắp bốn cõi thiên hạ nhưng khi đó vẫn không chứng đạo nên dần dần thoái lui trở về hạnh phàm phu, nhàm chán họa sanh tử.

Không còn tâm dõng mãnh tinh tấn, nhớ lại việc làm của mình lúc trước trong tâm sanh hối hận, muốn thoát khỏi thân này, rời bỏ chúng sanh, cầu thầy học hỏi tu tập theo pháp phương tiện lâu dài, vâng theo pháp Thanh Văn mới được giác ngộ.

Vị ấy nhớ lại công đức đã tạo lúc trước có ý tưởng trách là pháp không đạt được giác ngộ. Đó gọi là không quá cũng chẳng phải không quá trí của hàng La Hán tu tập chẳng phải là Phật hay Bích Chi Phật.

Thế nào là Bồ Tát tương ưng với hạnh thanh tịnh?

Đó là pháp mà Phật, La Hán, Bích Chi Phật tu hành. Tịnh hạnh chính là tam tràng thanh tịnh, tam nhãn thanh tịnh, giới thanh tịnh, định thanh tịnh, tuệ thanh tịnh, giải thoát thanh tịnh, giải thoát tri kiến thanh tịnh.

Từ ba thiện pháp đến mười tám pháp vô lậu, thiện pháp của đạo và tục đều thanh tịnh. Phật, Bích Chi Phật, A La Hán tu hạnh thanh tịnh đó nên thành đạo, không còn trở lại trong đó, không khởi các tưởng cũng không thể thấy, không khởi, không diệt cũng không đình chỉ thức. Có khởi đầu, có kết thúc thì có chỗ trụ, đạt đến không khởi đầu, không kết thúc thì làm gì có chỗ trụ.

Lúc đó Bồ Tát Tối Thắng bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ Tát ly dục tâm không tăng giảm, không nghĩ có khổ vui, xấu đẹp.

Không nghĩ có thiền chỉ tam muội đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối ở quá khứ, hiện tại, tương lai cũng không tự nghĩ ta ở trong dục hay vô dục?

Khi ấy Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Bậc Bồ Tát vô dục dạo khắp Cõi Dục, qua lại trong đó nói pháp giảng dạy, tuy vậy tâm không nhiễm trước. Chúng sanh ở đó như bị thiêu nướng trong hố lửa không đáy. Bồ Tát thương xót các chúng sanh bị buộc ràng trong bốn dòng chưa thoát ra đến mười hai biển, họ mong cầu lối thoát nhưng không biết phải theo đường nào.

Bồ Tát nội tâm kham nhẫn không ngại khó, giảng nói phân biệt pháp hưng suy của năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tư duy về sự sanh diệt của bốn đại như bọt nước, ngựa hong, đọt chuối, hư giả không thật cũng không kiên cố.

Vì sao?

Pháp ấy rất sâu xa khó thể biết rốt ráo. Sắc pháp rất sâu xa, đạo cũng như vậy. Năm ấm rất sâu xa, tục pháp cũng thế.

Tục pháp rất sâu xa, không giới cũng thế. Khéo léo quán sát cõi hư không cùng với pháp giới đều không có thức tưởng ngã, nhân, thọ mạng, suy tư chúng như ảo hóa. Tư duy tám pháp không nhàn của thế gian là uế trược, nhiễm ô làm chướng ngại con đường tu tập đạo của chúng sanh, tịnh quán tư duy chúng đều không có xứ sở.

Vì sao như vậy?

Vì bậc sĩ phu có mắt có thể quán đạt pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó gọi là Bồ Tát có tâm không tăng giảm, không thấy khổ vui, thiện ác, xấu đẹp, đều chẳng chấp trước nơi duyên khởi của ba cõi. Địa chủng là cảnh giới cứng chắc tự nhiên. Tánh của nước là ẩm ướt, tánh tự nhiên của nó là nhu nhuyến. Tánh của lửa là rực cháy, tánh tự nhiên là nóng. Tánh của gió là phiêu lãng chuyển động không trụ.

Tánh của pháp là quán sát tịch tĩnh, không có bốn đại: Đất, nước, gió, lửa từ đâu sanh lại do đâu diệt?

Khi Bồ Tát phân biệt pháp giới, nếu tánh của đất thịnh thì tánh của nước, lửa, gió mỗi đại không đồng, thần thức tự suy yếu, dần dần các đại không còn ứng hợp với nhau. Tánh của đất càng nặng thì thần thức càng yếu, mỗi đại sắp phân ly.

Nếu tánh của nước thịnh thì đất, lửa, gió biến động suy yếu, thần thức liền muốn di chuyển không ở an trong thân. Cũng như có người ở trong phòng yên tĩnh, ý muốn đi ra ngoài đến nơi thôn xóm, trước phải bước chân phải ra ngoài ngạch cửa, đó gọi là tánh đất tăng thịnh.

Sau đó mới đưa tay phải ra ngoài cửa, đó gọi là tánh của nước tăng thịnh. Bước chân trái ra ngoài ngạch cửa, đó gọi là tánh của lửa tăng thịnh. Lại đưa tay trái ra ngoài cửa, có thể gọi đó là tánh của gió tăng thịnh. Bước đi trên đường, đó gọi là thần thức đã phân ly. Đến nơi thôn xóm là vào năm đường.

Người biết được điều này mới liễu tri pháp giới là không cứng chắc, không mềm mại, không nóng, không nhẹ. Cứng là chỗ trụ, mềm là chỗ đến, nóng là chỗ đi, nhẹ là chỗ hướng đến.

Bồ Tát phân biệt pháp giới như vậy, quán hoàn toàn từng pháp đều không xứ sở, tư duy tánh tự nhiên của pháp giới không đồng, nuôi dưỡng thần, làm lớn thân thể. Mỗi đại đều có tánh riêng khác biệt.

Trong bốn đại, lửa là cực độc. Ba đại còn lại tánh tự tương ưng. Vì thế nên Bồ Tát phải quán sát trong ngoài bốn đại cũng như thế. Bốn đại của chúng sanh trong ba cõi không đồng, muốn tìm nguồn cội của chúng thì không biết nơi chốn.

Bồ Tát lại phải tư duy hoạt động của sáu tình. Nhãn cũng không, nhãn thức cũng không. Ngộ rõ không chính là pháp giới. Bồ Tát Đại Sĩ lại phải suy tư ngộ rõ sáu suy. Sắc do nhãn thấy, sắc đó cũng không hiện hữu.

Sắc của vật hiện trước mắt cũng không hiện hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Bồ Tát lại phải học đế tướng và phi đế tướng, đạo tướng và phi đạo tướng, không tướng và phi không tướng.

Thế nào là Bồ Tát học đế tướng và phi đế tướng?

Lúc đó Bồ Tát ngộ rõ bổn vô. Bổn vô là một chứ không phải hai. Bồ Tát lại biết chứng đạo mà không có chứng không thấy thọ chứng, không thấy không thọ chứng, cũng không thấy tương ưng hay chẳng tương ưng. Hiểu rõ tương ưng và chẳng tương ưng, đó gọi là đế tướng.

Bồ Tát học đế tướng thì trụ tâm trong không cũng là chân lý, rời xa không cũng là chân lý, không trụ mà cũng chẳng phải chẳng trụ.

Đó gọi là chánh định đế tướng Kim Cang. Y cứ không tu tập pháp bổn, giữ gìn phòng hộ nên đắc tận. Ngộ được ba việc đó cũng là đế tướng. Bồ Tát học đế tướng biết rõ nội tâm là không thật, biết tướng bên ngoài nên không nhập. Không thấy ái lạc, không thấy không ái lạc. Không thấy chỗ đúng, chỗ sai. Đó cũng gọi là đế tướng.

Nội tâm không đoạn chánh kiến, tướng bên ngoài là thị hiện. Nếu như ở chỗ nhàn nhã, tâm luôn tịch tĩnh. Nếu cảnh bên ngoài rối loạn, Bồ Tát biết rõ các khổ an trụ nơi thích hợp, tâm luôn bình đẳng.

Người ngộ đế tướng này chứng đạo suy tư, thể nghiệm thấy rõ năm ấm là không nên không trụ, không thấy có pháp trụ, trí tuệ dứt hết các tưởng, tâm không trụ si cũng không trụ nơi kiết sử, không trụ ở năm việc, trọn không theo mười điều lành hay mười điều ác của thế gian. Đó gọi là đế tướng.

Bồ Tát thực hành đế tướng như vậy thì không thoái chuyển. Phi đế tướng là nghĩa lý bậc nhất của hư không giới. Biết rõ chúng là vắng lặng, theo duyên cởi bỏ, không ràng buộc. Đó gọi là Phi đế tướng của Bồ Tát.

Thế nào là Bồ Tát học đạo tướng phi đạo tướng?

Do dự ràng buộc trong si mê thế gian, với pháp không nên ái nhiễm. Trong tâm tự khởi bạo loạn ngang trái đọa khổ đau. Đó gọi là đạo tướng. Thân hiện tại làm đời sau nhận quả báo, không nương tựa thầy, không hướng về thiện tri thức cũng là đạo tướng.

Thế nào là phi đạo tướng của Bồ Tát?

Phi đạo tướng là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, pháp hữu vi vô vi đã tu tập thể nhập không phải là hai mà cũng không lìa xa hai. Không theo duyên, không lìa duyên, không trụ duyên, không tùy duyên, không độ, chẳng phải không độ, không có quả, chẳng phải không có quả. Một, hai, ba, bốn cho đến mười và chẳng phải không có mười.

Chẳng phải bị sanh, chẳng phải không sanh, chẳng phải diệt tận, chẳng phải không diệt tận. Chẳng phải khởi diệt, chẳng phải không khởi diệt, không ngôn giáo, chẳng phải không ngôn giáo. Chẳng giải không, chẳng phải chẳng giải không.

Chẳng tư duy về định chỉ, chẳng phải chẳng tư duy về định chỉ. Bồ Tát quán sát hai mươi bốn việc, quán rõ chi tiết từ đầu đến cuối, tâm phân biệt không trụ sanh tử mà lìa bỏ ràng buộc, không tự cao, không tự ti rồi phải dốc toàn lực tu tập du tán tam muội, là tam muội đứng đầu trong trăm ức loại định.

Tam Muội đó là pháp tôn quý, không có pháp nào vượt hơn, chẳng phải cảnh giới của hàng La Hán, Bích Chi Phật. Bấy giờ Thế Tôn ở trên tòa nhập chánh định tam muội tên là nhất ý vô úy khiến cho tất cả bốn bộ chúng, mỗi người đều không có niệm tưởng khác cũng không loạn tưởng.

Khi đó Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo tư duy pháp này. Ta nay vì ông giảng nói phân biệt tam muội để các vị trong pháp hội không còn nghi ngờ.

Ngài Tối Thắng thưa: Theo lời Thế Tôn dạy, con hân hoan muốn nghe. Do hân hoan nên tâm được an ổn.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Có tam muội tên là Tán Chư Kết khiến cho chúng sanh hữu hình ở vô hạn lượng cõi nước trừ bỏ khổ đau, không còn các phiền não. Lại có tam muội tên Dõng Từ Minh khiến mỗi chúng sanh không còn niệm oán hận.

Lại có tam muội tên Danh Đức Sung, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh loại không có tưởng ăn uống. Lại có tam muội tên Thanh Tịnh, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh đắc pháp nhãn tịnh.

Lại có tam muội tên Nhĩ Căn Thanh Tịnh, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại đắc được Thiên Nhĩ Thông. Lại có Ý Tịch tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại từ bỏ pháp tà thế.

Lại có Trừ Ác tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại tu tập Thập Thiện hạnh tích. Lại có tam muội tên Độc Bộ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại không còn tâm tà kiến mà theo chánh đạo.

Lại có Thú Lộ tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại theo đạo không mê hoặc. Lại có tam muội tên Thành Tựu, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại bỏ ác giới, thành tựu giới thanh tịnh.

Lại có tam muội tên Tàm Quý Lạc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại vâng giữ nhẫn nhục. Lại có tam muội tên Tấn Đức, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại đang có tâm giải đãi, kiêu mạn khởi ý dõng mãnh.

Lại có tam muội tên Nhất Kỷ Vô Lữ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ưa thích pháp hư dối mau nhập thiền định. Lại có tam muội tên Giáng Phục, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh ngu si chấp trước có trí tuệ tự trang nghiêm.

Lại có tam muội tên Vô Xuyên Lậu, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh không có tín tâm an lập tín căn. Lại có tam muội tên Tổng Trì Đức, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ít nghe đạt được đa văn.

Lại có tam muội tên Oai Nghi Tắc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại chỉnh đốn oai nghi, không mất lễ tiết. Lại có tam muội tên là Thí Ân, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh chấp dục vĩnh viễn không còn ái dục.

Lại có tam muội tên là Dĩ Độ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh sân nộ trừ bỏ tâm giận dữ oán hơn. Lại có tam muội tên là Vô Hoặc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ngu si tự thân tu tập trí nghiệp.

Lại có tam muội tên là Biến Chí, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại không chấp trước tam hữu. Lại có tam muội tên Nhất thiết thân thể hình sắc, Như Lai nhập tam muội này khiến tất cả chúng sanh của Quốc Độ ở mười phương hóa thành trăm, ngàn, ức hình sắc mà mỗi chúng sanh đều không biết nhau.

Này Tối Thắng, ta nay lược nói các pháp tam muội chủ yếu. Nếu Như Lai từ kiếp này đến kiếp khác cho đến trăm kiếp giảng nói về tam muội mà Như Lai đã nhập thì không thể nói hết được, chỉ Chư Phật Thế Tôn mới có thể biết mà thôi.

Khi ấy Ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: Thật kỳ diệu! Như Lai đã tạo ra thân tướng biến hóa không thể nghĩ bàn, không thể tính lường phương tiện khéo léo vô hình mà tự trang nghiêm. Như Lai nói các pháp tam muội mà Như Lai đã thể nhập, con xưa nay chưa từng thấy, chưa từng nghe. Nếu có Bồ Tát nghe được tên các tam muội đó rồi tâm ý định lĩnh thọ trì, tụng đọc thì đi đến nơi nào cũng được tự tại.

Lại nữa, nếu khuyến trợ khiến chúng sanh hoan hỷ là đã cúng dường pháp của Chư Phật. Đó chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh Văn, Duyên Giác có thể theo kịp. Nếu có người hủy báng các pháp định tam muội đó thì luôn ở trong chốn u ám chẳng thể hiểu thấu được.

Lại nữa, thân người đó sẽ rơi vào ngục Vô cứu, tội lỗi nhiều như cát phủ trùm không thể nói hết. Nếu người có tâm ganh ghét định ý tam muội thì tội đó khó lường, trải qua nhiều kiếp bị mù, ngọng, câm, điếc chẳng thể nghe pháp.

Tuy được làm người nhưng luôn chịu nhiều khổ đau, nói dối, nói lưỡng thiệt, miệng không thể nói. Phải tự thân, chẳng phải nhờ người khác, có quảng bác đa văn của Bồ Tát mới có thể tin chánh định tam muội này.

Nếu có người khuyến khích người khác phát tâm tụng đọc, tu tập định này thì đúng thời được thấy Chư Phật mười phương. Lại nữa, người nào hôm nay nghe Phật giảng giải định ý, chí không thay đổi thì mới ứng hợp với chánh định.

Bấy giờ Ngài Tối Thắng nương oai thần của Đức Phật bạch Phật: Hôm nay các vị đến trong hội này, Bồ Tát và bốn bộ chúng Trời, Rồng, Thần, Quỷ đều mong được thấy Như Lai hiện sức cảm động của định ý. Nhờ đó họ có thể được thấm nhuần ít nhiều, được nhiều sự thành tựu.

Bạch Thế Tôn, xin thương xót ban bố phóng ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Phật ở mười phương. Chúng sanh có căn tánh thuần thục trong các cõi ấy nương nhờ ánh sáng đều được giáo hóa, đều được giải thoát.

Lúc ấy Thế Tôn theo lời Ngài Tối Thắng liền nhập chánh định tam muội Như kỳ tượng, tam muội đó tên là Hữu túc chỉ luân đại ý, phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy chiếu khắp Thế Giới nhẫn xong lại chiếu đến hằng sa cõi nước của Chư Phật ở mười phương.

Chư Bồ Tát trong Quốc Độ ở mười phương gồm trăm, ngàn, ức chúng sanh theo ánh sáng ấy mà đến Thế Giới nhẫn. Cách cõi này chín mươi sáu hằng hà sa đẳng các Cõi Phật, còn hơn số đó nữa, về phương Đông có Quốc Độ tên là Hải Bảo.

Đức Phật tên là Bảo Tịnh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn hiện đang nói pháp.

Đức Phật ấy có vị Bồ Tát tên Biện Thông, là bậc Bồ Tát bất thoái chuyển, thấy ánh sáng ấy liền đến chỗ Đức Như Lai Bảo Tịnh, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng sang một bên.

Bấy giờ Đức Bảo Tịnh Như Lai bảo Bồ Tát Biện Thông: Ông đến cõi đó phải giữ gìn oai nghi chớ để mất phép tắc. Như thế bởi vì cõi đó chí tánh cang cường, làm việc hung bạo. Ông chớ nên thấy khổ vui. Chúng sanh cõi đó phần nhiều có tâm kiêu mạn, không thuận theo chánh pháp. Nếu gặp, ông nên cẩn thận, chớ có kinh sợ. Nếu có thể được như thế thì ông nên biết đã đúng thời.

Rất nhiều vị Bồ Tát ở cõi Phật đó tự thưa với Đức Phật Bảo Tịnh: Chúng con sắp được thiện lợi, nhờ phước quá khứ nên tự mừng vì không sanh vào cõi Nhẫn. Khi ấy Bồ Tát Biện Thông cùng mười ngàn vị Bồ Tát vây quanh trong khoảng thời gian một lực sĩ co duỗi cánh tay đã tới cõi nhẫn, đến chỗ Đức Thích Ca Văn Phật ngự.

Bấy giờ Thế Tôn biết nên bảo Ngài Tối Thắng: Ông có thấy Bồ Tát Biện Thông và các Bồ Tát kia không?

Ngài Tối Thắng thưa: Vâng, con đã thấy.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Vị Bồ Tát đó biện nghĩa đệ nhất. Từ, bi, hỷ, hộ xả, lời nói như hòa, chí hạnh cao xa, trước cười sau nói, sắc mặt tươi vui. Có người hỏi thì trả lời ngắn gọn không trùng lặp, tiếp độ chúng sanh như Phật tiếp độ, với đạo Bồ Tát đã thành tựu bất thoái chuyển.

Lúc đó Bồ Tát Biện Thông cùng mười ngàn vị Bồ Tát lễ chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu bên phải ba vòng, chắp tay hướng về Đức Phật mà nói kệ khen ngợi:

Tiếng vang khắp mười phương

Giảng dạy tên công đức

Đến cõi Phật chúng con

Tất cả nhờ Phật Độ

Cảnh giới Phật thanh tịnh

Không nghe tên năm đường

Bỏ đó mà đến đây

Từ bi khó dụ sánh.

Nay Thế Tôn thị hiện

Cõi người, thật khó có

Tích đức như Tu Di

Tự hạ mình xuống thấp.

Giả sử tinh tấn tu

Một kiếp đến trăm kiếp

Không bằng trong khoảnh khắc

Tu tâm ái cõi này.

Chư Phật hiện thế gian

Trước chọn cõi thanh tịnh

Chỉ Thế Tôn mới nhẫn

Trụ đời ngũ trược này.

Lành thay! Thật khó có

Cứu hộ, độ bình đẳng

Truyền dạy pháp Tam Thừa

Khiến tịnh thân, khẩu, ý

Đã thành Bồ Tát Đạo

Cũng không tâm thoái chuyển

Chí ý càng tinh tấn

Vì thế con đảnh lễ.

Trừ các kết si, nghi

Chóng tu mười hạnh lành

Chư Phật đầy đủ pháp

Giảng nói trí rộng sâu.

Như ở cõi Phật con

Phật trụ trăm ức kiếp

Không bằng ở cõi này

Trụ kiếp độ một người.

Con đến vô lượng cõi

Hằng sa không tính hết

Không nghe có khổ não

Và tám xứ không nhàn.

Người cõi này ngang ngạnh

Do cấu uế thành thân

Nước chân như Tứ Đế

Tắm gội sạch trong ngoài.

Chúng con tín tâm đến

Vì quy y xa lại

Muốn nghe pháp định ý

Mong đúng thời tuyên giảng.

Bấy giờ Bồ Tát Biện Thông nói kệ khen ngợi Đức Phật xong, ở trước Đức Phật thưa: Thế nào là Bồ Tát có chí ý kiên cố kham nhẫn lãnh thọ định ý, nghe giáo giới cũng không nhàm chán, cho là đủ?

Thế nào là Bồ Tát có lời nói và việc làm tương ưng, nội tánh nhu nhuyến?

Khi ấy Thế Tôn bảo Ngài Biện Thông: Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo tư duy pháp này. Ta sẽ vì ông phân biệt nghĩa đó.

Ngài Biện Thông thưa: Xin vâng, bạch Thế Tôn!

Đức Phật bảo Bồ Tát Biện Thông: Tu tập định tâm thành tựu bốn pháp khiến chí ý Bồ Tát kiên cố, kham nhẫn lãnh thọ định ý, nghe giáo giới cũng không nhàm chán, cho là đủ.

Thế nào là bốn pháp?

Đó là bốn pháp đẳng tâm: Từ, bi… không lười biếng. Thấy người được độ như ảo hóa, cũng có trí tuệ của Chư Phật không bình đẳng. Đó là nói Bồ Tát Biện Thông thành tựu bốn pháp, chí ý kiên cố, kham nhẫn lãnh thọ định.

Thế nào là Bồ Tát nhất tâm, chí hướng, lời nói không sai loạn?

Đức Phật bảo Ngài Biện Thông: Khi ấy Bồ Tát lại phải thành tựu bốn pháp.

Bốn pháp là gì?

Bồ Tát chỉ giảng nói pháp không cho chúng sanh, nói các pháp không với các thọ nhập đều không chấp trước. Hoan hỷ tán thán công đức Bồ Tát đã làm. Phân biệt pháp thiện ác, hữu vi vô vi, nghĩ nhớ thực hành phương tiện quyền xảo. Đó là bốn pháp.

Thế nào là Bồ Tát tăng ích thiện căn, trong nhiều hoàn cảnh không giảm?

Đức Phật bảo Ngài Biện Thông: Bồ Tát lại phải tư duy bốn pháp, ý chuyên nhất không loạn.

bốn pháp ấy là gì?

Là nói tâm luôn chuyên chú trong định, nghiêm trì lễ tiết, không vọng mong cầu lợi dưỡng, không cầu tiếng tăm. Đó là bốn pháp khiến ý không loạn.

Lại có bốn pháp làm tăng ích thiện căn?

bốn pháp đó là gì?

Là nói bốn pháp: Dạy người phát tín tâm. Sau khi bố thí không mơ tưởng quả báo. Hộ trì Pháp Sư. Ngôn giáo của Bồ Tát giảng dạy không trái nghịch. Đó gọi là bốn pháp Bồ Tát phải tu tập, thực hành.

Lại có bốn pháp mà Bồ Tát từ địa này đến địa khác, hoặc đi lui đi tới đều phải ghi nhớ tư duy.

bốn pháp đó là gì?

Dạy chúng sanh tu tập thiện căn. Lìa xa các điều ác, không làm việc ngu mê. Không bỏ thệ nguyện lớn. Ý không khiếp nhược. Đó là bốn pháp mà Bồ Tát phải tu tập thực hành. Lại có bốn pháp Bồ Tát phải vâng giữ.

bốn pháp đó là gì?

Là nói Bồ Tát dùng quyền phương tiện giáo hóa chúng sanh. Làm cho kẻ phàm phu an lập tín tâm. Hóa độ không hư vọng. Hiện uy tướng của Phật mà tiếp dẫn chúng sanh. Đó gọi là bốn pháp Bồ Tát phải vâng giữ.

Lại có bốn pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

bốn pháp đó là gì?

Là nói đi đứng theo đúng phép tắc. Không chấp trước y phục. Tùy thuận theo phép tắc của thời đại đó. Ta luôn nhẫn dù khổ hay vui. Đó là bốn pháp tu hành của Bồ Tát.

Lại có bốn pháp.

bốn pháp đó là gì?

Là nói tự điều phục tánh ý. Luôn phát đạo tâm. Không lìa phương tiện quyền xảo. Ý chuyên chú nhớ nghĩ Phật. Đó là bốn pháp.

Lại có bốn pháp mà Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

bốn pháp đó là gì?

Là nói Bồ Tát phải nhớ nghĩ hạnh độc cư. Lìa xa tâm Thanh Văn và Bích Chi Phật. Cầu pháp không chán đủ. Giảng rộng chánh pháp đã được nghe cho người khác. Đó gọi là bốn pháp.

Lại có thuốc men điều trị bệnh. Cầu nghĩa lý không nhàm chán. Nhẫn trước tất cả khổ. Đó gọi là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

bốn pháp đó là gì?

Thực hành bất khởi nhẫn, vượt qua diệt tận nhẫn. Tư duy mười hai nhân duyên căn bổn. Không chấp trước pháp nhẫn. Với mỗi pháp nhẫn đều tự lìa bỏ. Đó gọi là bốn pháp.

Lại có bốn pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

bốn pháp đó là gì?

Tư duy pháp ác, quán bất tịnh. Đếm hơi thở ra vào. Tu tập pháp trong sạch. Luôn tự khiêm cung. Đó gọi là bốn pháp.

Lại có bốn pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

bốn pháp đó là gì?

Phải quán pháp nào phù hợp với chúng sanh rồi sau đó mới cho thuốc. Luôn nhớ nghĩ cung kính, không được tự cao. Nếu ở trong đại chúng không mê đắm lợi dưỡng. Thực hành phương tiện quyền xảo thích hợp không ngại. Đó gọi là bốn pháp.

Lại có năm pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

Năm pháp đó là gì?

Lãnh thọ pháp bình đẳng không thiếu sót. Quán thân mình bình đẳng với người không khác. Theo thiện tri thức tu tập. Đoạn trừ vĩnh viễn kết sử khiến không còn dư tàn. Đó gọi là năm pháp.

Lại có năm pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

Năm pháp đó là gì?

Tự phản tỉnh biết lỗi của mình, không thấy lỗi của người. Nếu ở chỗ bộ phái ác thì làm cho họ tu tập tâm từ.

Thông tỏ rõ ràng các pháp, trừ bỏ duyên ràng buộc. Đạo tâm kiên cố trọn không hư vọng. Độ cho chúng sanh hiện tiền tu tập đạo ý. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

Năm pháp đó là gì?

Luôn bố thí. Sau đó lại dạy người khiến họ thực hành tâm nhân ái bố thí. Khi khởi tâm bố thí cũng không chọn lựa, quán điều phải điều trái của chúng sanh. Với các pháp sâu xa đều được giải thoát. Tâm chí thành mong thành Phật trang nghiêm cội gốc đạo. Đó gọi là năm pháp.

Lại có năm pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

Năm pháp đó là gì?

Biết sự sanh diệt của hành. Có sức vô úy. Không rời bỏ chúng sanh. Phân biệt các trí, cũng có trí tăng thượng. Không có tâm trái nghịch. Đó gọi là năm pháp.

Lại có năm pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

Năm pháp đó là gì?

Vượt qua năm đường luôn tu tập pháp Ba la mật. Nhập từ tam muội lấy đó tự an vui.

Vô lượng Phật trí đều hiện tiền. Cũng không có tâm nan giải mê mờ với vô lượng pháp tam muội.

Lại có năm pháp Bồ Tát phải ghi nhớ tư duy.

Năm pháp đó là gì?

Phát tâm hoằng thệ trọn không hối hận. Lời nói đúng với việc làm, không nói sai lầm. Y cứ thiền định mà không chấp thiền. Giữ gìn tâm niệm không chấp trước. Đến chỗ nào cũng không vui.

Đó là năm pháp.

Này Bồ Tát Biện Thông, Đại Bồ Tát tu tập định ý bổn hạnh này thì được chánh định của Như Lai.

Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn nói pháp đó, hai ức trời người đều phát tâm đạo vô thượng chánh chân, lại có năm ngàn vị trời được pháp nhẫn bất khởi.

Khi ấy Chư Bồ Tát ở các Cõi Phật, mỗi vị đều tung rải hoa hương cúng dường lên Phật. Hoa ngập đến đầu gối.

***