Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI CHÍN

PHẨM GIÁO HÓA CHÚNG SANH
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng bạch Đức Phật: Thế nào là Đại Bồ Tát đi vào sanh tử tinh tấn khổ hạnh từ một Cõi Phật đến một cõi Phật Giáo dưỡng chúng sanh, trang nghiêm Đạo Tràng.

Tuy giáo hóa chúng sanh mà không thấy giáo hóa, cũng không thấy chúng sanh, cũng không tự thấy ta có pháp hóa độ. Do vậy nên dùng pháp tánh quán hư vô tịch tĩnh, không có sở hữu.

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Đại Bồ Tát giữ gìn tâm thệ nguyện lớn vô biên giáo dưỡng chúng sanh, thanh tịnh Cõi Phật. Tuy giáo hóa chúng sanh mà không thấy giáo hóa cũng không thấy chúng sanh. Do vậy nên dùng pháp tánh quán hư vô tịch tĩnh, không có sở hữu, đều là không, đều là tịch tĩnh, không hình, không tướng vì không thể thấy.

Tất cả mỗi pháp tự thể là không, mỗi mỗi chúng sanh tự thể là không, mỗi Quốc Độ tự thể là không, mỗi pháp Niết Bàn tự thể là không, mỗi Bồ Tát tự thể là không.

Này Tối Thắng, Bồ Tát phải quán như vậy, thâm nhập pháp yếu, ngộ rõ các pháp là Nhất tướng như vậy. Các pháp trí tuệ vô vi vắng lặng, tịch tĩnh, không bị chấp trước.

Đại Bồ Tát cũng như thế, điều phục ý hướng theo đạo, tâm khó bị chướng hoại thì chắc chắn đạt đạo vô thượng chánh chân thành Bậc Tối Chánh Giác, chí như kim cương cũng không thối giảm, dùng pháp vô vi trang nghiêm cội đạo thọ như ngọc anh lạc.

Bồ Tát từ sơ phát tâm đến khi tới Đạo Tràng ngồi dưới cội thọ vương đã hàng phục, sẽ hàng phục những người chưa được hàng phục.

Trong khoảng thời gian ấy, Bồ Tát không khởi tâm mạn như có ý nghĩ: Ta thắng người kia, ta cùng người kia bằng nhau, người kia không thắng ta.

Tăng thượng mạn, tăng trung mạn, tăng hạ mạn.

Trung thượng mạn, trung trung mạn, trung hạ mạn.

Hạ thượng mạn, hạ trung mạn, hạ hạ mạn.

Đại Bồ Tát phải nhớ nghĩ, tư duy trừ bỏ các tâm mạn ấy.

Bồ Tát cũng không có tâm ganh ghét, đố kỵ, cống cao. Bồ Tát nhập định quán sát chúng sanh phải độ người chưa độ nên dùng quyền phương tiện đi vào năm đường, tám chỗ không nhàn.

Nếu có chúng sanh đáng nhận lãnh giáo hóa, Bồ Tát liền cùng người ấy làm bạn tri thức, hoặc làm cha mẹ, anh em, quyến thuộc hoặc làm vị trưởng giả đại phú giàu sang tùy theo chúng sanh mà cấp thí cho người nghèo thiếu, xuất ra vô lượng vàng, bạc, vật báu xa cừ, mã não, chân châu, hổ phách, ngọc minh nguyệt đẹp và ngọc báu như ý.

Hoặc dùng thức ăn, giường chiếu đồ nằm, thuốc men trị bệnh cấp thí mà không có tâm hối tiếc. Lại nữa, nếu có người đến chỗ Bồ Tát khẩn cầu xin đầu, mắt, tay, chân, tài sản quốc gia, vợ con, đồ dùng bảy báu, Bồ Tát đều có thể bố thí cho mà không có niệm tưởng bố thí.

Khi ấy Bồ Tát liền nhập pháp giới tự tại định ý tam muội chánh họ, dùng quyền phương tiện giảng nói pháp hư vô cho chúng sanh đó: Các vị nên biết, pháp là vô vi cũng không có pháp nào là vô vi. Bồ Tát phân biệt sáu tình đều vô chủ. Nếu mắt thấy sắc, sắc cũng không đúng. Chúng sanh ngu mê ở trong đó khởi thức tư duy phân biệt. Nhãn thức vô chủ.

Với tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết trơn mịn, ý phân biệt pháp, Bồ Tát quán sát đều vô sở hữu.

Pháp khởi theo chỗ khởi, pháp diệt theo chỗ diệt, khởi không biết khởi, diệt không biết diệt. Mười hai nhân duyên, mười tám pháp trì nhập căn bổn cũng như thế.

Có khi Bồ Tát nhập Sư tử phấn tấn tam muội, lại có thể thị hiện vô số biến hóa, ở trong đó diễn xướng âm thanh thanh tịnh, hiện ra Quốc Độ có các báu trang hoàng, hương hoa cỏ thơm xông ướp năm sắc vàng chói, oai nghi tề chỉnh, chí núi An Minh không thể đổi dời.

Bồ Tát lại hiện vô lượng pháp môn định ý mà Như Lai thường an lạc trụ trong đó, tất cả pháp căn bổn của chúng sanh đều hiện tiền.

Khi ấy Bồ Tát lại dùng thần túc nhập vô lượng định mà tự thị hiện ngồi kiết già trên tòa sen, tự hiện sắc thân các pháp công đức suốt trong vô hạn lượng A tăng kỳ kiếp, tịnh trừ dấu tích tưởng chấp trước của chúng sanh, hướng dẫn đến con đường giải thoát của Bồ Tát, y theo nhất thiết trí diễn nói pháp Cam Lộ, tuyên bày ánh sáng trí tuệ, thị hiện trí tuệ Phật không bị nhiễm chấp.

Hoặc dùng vật báu quý hiếm dựng  bảy báu đầy khắp thiên hạ, hoặc hai ngày thì xong, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày. Hoặc Bồ Tát đến Trời Phạm Thiên, hoặc đến Trời Nhất Cứu Cánh trụ thọ nhiều kiếp mà không thủ diệt độ.

Có khi Bồ Tát dùng quyền phương tiện nhập định vô vi tịch tĩnh đầy đủ các căn lành, không xả bỏ nhất thiết trí của Như Lai, dùng sức tam muội giáo huấn chúng sanh.

Hoặc có chúng sanh phải nghe âm thanh giáo huấn mà được độ, hoặc có chúng sanh biết nghĩa của vị mà được độ, hoặc có chúng sanh thân được xúc chạm trơn mịn mà được độ, hoặc có chúng sanh ý ngộ pháp thể mà được độ.

Khi đó Bồ Tát lại suy tư: Chúng sanh nghe âm thanh tất muốn nghe ta nói nghĩa thanh tịnh.

 Ta nay phải giảng nói tám âm của Như Lai, diễn giải âm thanh thành tám câu: âm thanh của khổ, âm thanh của tập, âm thanh của tận, âm thanh của đạo, âm thanh của thấy khổ hướng khổ, thấy tập hướng tập, thấy tận hướng tận, thấy đạo hướng đạo.

Khi đó chúng sanh nghe âm thanh như thế ý không khai ngộ, muốn thấy ánh sáng, thân thể Bồ Tát. Bồ Tát nhập định dùng bình đẳng quán liền hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả, tất cả thành bảy báu xa cừ, mã não, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách.

Đều phát ra ánh sáng. Ánh sáng đó phản chiếu với nhau che mờ cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Khi đó tâm ý chúng sanh không khai ngộ, lại muốn được thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng.

Bồ Tát quán sát biết tâm niệm đó liền nhập vô ngại tâm niệm tam muội, phóng ra ngàn ức vô số ánh sáng từ lỗ chân long, mỗi ánh sáng có hoa sen bảy báu, mỗi hoa sen bảy báu có đài bảy báu, trên mỗi đài có lọng bảy báu, dưới mỗi lọng có tòa bảy báu, trên mỗi tòa đều có Đức Như Lai giảng nói cho chúng sanh về nguồn gốc của khổ: Khổ phát sanh, không có khổ thì không có Khổ Đế. Tập phát sanh, không có tập thì không có Tập Đế. Tận phát sanh, không có tận thì không có Tận Đế. Đạo phát sanh, không có đạo thì không có Đạo Đế.

Chúng sanh Thanh Văn đó thấy được ánh sáng, nghe âm thanh giảng nói về khổ, tâm sanh nhàm chán họa hoạn. Mỗi người tự khởi tưởng khổ, không, vô ngã, tưởng vô sanh diệt, ở trên tòa ngồi chấm dứt nguồn gốc khổ tương ưng với thanh âm thanh tịnh.

Khi ấy chúng sanh ngồi trên tòa ngửi mùi hương, ý không khai ngộ lại sanh niệm suy nghĩ: Ý chúng ta ưa thích mùi hương cực diệu mà nay Bậc Đại Thánh lại giảng nói thanh âm. Bồ Tát biết tâm niệm của chúng sanh kia liền nhập Cực vi chúng hương định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều tỏa hương xông ướp như các loại hương Ngưu Đầu, Chiên Đàn, Kê Thiệt, Ngãi Nạp, Bạt Hương, Mộng Kinh, Mộc Mật, Tô Hợp.

Hương của hoa Phân Đà Lợi, hoa Tu Kiền Đề, hoa Mãn Nguyện Tu Kiền Đề, hoa Thanh Liên Phương…, trăm ngàn chủng loại hoa như thế biến khắp bốn phương không nơi nào không ngửi được mùi hương. Lúc đó chúng sanh ngửi được hương nhưng ý không khai ngộ, muốn trong mùi hương phát ra tiếng giảng đạo.

Bấy giờ Bồ Tát biết tâm niệm đó của chúng sanh liền ở trong mùi hương giảng nói sáu loại pháp. Khi ấy chúng sanh ngửi hương tâm ý khai ngộ, chấm dứt sự họa hoạn nơi Thế Giới này, không còn sanh lại, tận trừ gốc khổ liền thành tựu đạo quả.

Bấy giờ chúng sanh ngồi trên tòa tham ưa vị, ý không khai ngộ tự nghĩ: Ý của ta ưa thích vị ngon mà nay Bậc Đại Thánh chỉ dùng hương giáo huấn, thật chẳng phải là điều tâm ta ưa thích. Bồ Tát biết suy nghĩ của chúng sanh đó liền nhập cực vi tịnh vị định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành thức ăn uống cam lộ tự nhiên, tỏa ra mùi thơm vị ngon ngọt vô cùng.

Khi ấy chúng sanh tuy được mùi vị đó theo ý muốn nhưng không khai ngộ, ý tham muốn các thực phẩm được dâng hiến tự nhiên trước khi nấu và thấy được hình thể của trái quả theo ý muốn.

Bồ Tát biết tâm niệm của chúng sanh đó liền nhập tốc tật vô ngại tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh tay cầm vô số loại cam lộ tự nhiên.

Trong thức ăn cam lộ phát ra các âm thanh: Vị ngọt bên ngoài, lưỡi nếm biết thưởng thức. Hai pháp giao hội mới khởi trần lao. Ta nay tự tiết chế biết đủ là pháp vô thượng, không sanh khởi sự ham muốn hình thể chi tiết đưa đến thống khổ. Như xe cần bộ khung mới có thể chở nặng, cùi hủi ghẻ lở được thuốc mới tránh khỏi sự đau đớn.

Giáo pháp như thế đều phát ra từ vị. Chúng sanh nghe giáo pháp đó, tâm ý khai ngộ, chấm dứt họa hoạn thế gian cũng không còn sanh trở lại, tận trừ gốc khổ liền thành tựu đạo quả.

Khi ấy chúng sanh loại ngồi trên tòa, những người ham thích xúc chạm trơn mịn, ý không khai ngộ liền khởi niệm nghĩ: Nay ý ta ham thích xúc chạm trơn mịn mà nay bậc Đại Thánh chỉ nói diệu hương, thật chẳng phải là điều mà tâm ta ham muốn. Bồ Tát biết tâm niệm của chúng sanh đó liền nhập cực dục vi tế nhu thuận định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, sông núi, tường vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh đều vận y bằng vải kiếp ba tự nhiên, dùng chỉ Trời, tơ Trời để may.

Chúng sanh thấy y, lấy tay xúc chạm tự cảm giác biết mềm nhẹ không gì sánh bằng, khởi ý niệm muốn một y thì trăm tấm y tự đến.

Tâm chúng sanh khai ngộ liền tựt rách: Than ôi! Ta vì sao ham vận y này, há chẳng phải tự rơi đọa, tăng thêm trần lao. Thân chỉ là bộ xương khô, máu thịt bao phủ bên ngoài.

Họ liền nghe trên hư không phát ra các thanh âm: Thiện nam tử nên biết, năm thú vui cõi đời chẳng phải chân thật, chẳng phải có thật. Tâm chấp trước cảm giác trơn mịn dần dần khởi lên niệm vướng mắc. Niệm phải tự trách, từ bỏ tâm tham ái kia.

Khi đó chúng sanh nghe thanh âm từ trên hư không liền khai ngộ, chấm dứt nỗi khổ thế gian kia cũng không còn sanh lại, trừ tận gốc khổ liền thành tựu đạo quả.

Bấy giờ chúng sanh loại ngồi trên tòa, người tham ưa pháp, ý không khai ngộ liền tự nghĩ: Nay ý ta muốn pháp cực diệu. Hôm nay Bậc Đại Thánh chỉ nói cảm xúc trơn mịn, thật chẳng phải là điều tâm ta ưa thích.

Bồ Tát biết tâm niệm của chúng sanh kia liền nhập vô lượng pháp giới định ý tam muội chánh thọ hóa đất đai, sông núi, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh.

Mỗi chúng sanh đều giảng nói sáu pháp Ba la mật, không, vô tướng, vô nguyện, thiền định, giải thoát, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, sanh diệt, chấp đoạn đều vô sở hữu.

Có khi Bồ Tát quán hướng tâm ý của chúng sanh liền giả đặt kế phương tiện tự do thị hiện, hoặc ẩn thân sắc tướng, bay lên hư không hiển bày mười tám thứ biến hóa, qua lại trên hư không không bị ngăn ngại.

Hoặc hóa hiện Quốc Độ, thành ấp diễn nói Phật Pháp khiến chúng sanh loại đạt được chánh định bất tư nghị của Chư Phật. Lúc bấy giờ, nhân dân ở trong thành ấp do Bồ Tát hóa hiện, mỗi người đều không có tâm hiềm hận, cùng kính trọng nhau như cha mẹ, anh em. Biết khiêm cung, tự hạ, luôn cung kính bậc trưởng thượng.

Khi đó Bồ Tát lại nhập Vô dụ quang minh làm cho các Bồ Tát nhập ánh sáng này ngồi kiết già hoặc ngồi trên tòa cao, hoặc ngôi trên tòa sen đầy khắp Thế Giới không có nơi nào không có, hoặc hiện thân Phật ngồi trên hoa sen báu đều diễn nói sáu pháp Ba la mật của Chư Phật, pháp không, vô tướng, vô nguyện, thiền định, giải thoát.

Bồ Tát lại dùng mười tám pháp bất cộng, bốn pháp vô sở úy của Như Lai gia bị cho chúng sanh khiến mỗi người đều được độ.

Bấy giờ Bồ Tát lại dùng sức thần túc phóng ánh sáng lớn, hiện rõ ức trăm ngàn cõi nước Thế Giới của Chư Phật. Mỗi ánh sáng dẫn đến chỗ ức trăm ngàn chúng sanh.

Họ nương theo ánh sáng đến đó nghe pháp nên được độ. Mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát có mười ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có mười ức Quốc Độ. Hóa Quốc Độ đó tự nhiên có, tự nhiên hiện ngọc báu ma ni, dùng các loại báu quý hiếm để chạm trổ trang hoàng trong nước.

Ngọc báu ma ni treo trên hư không cách đất mười nhận. Ánh quang của ngọc ấy sáng tỏ soi chiếu khắp nơi. Lại có ngọc báu ma ni lạ thường dùng để trang nghiêm. Trên mỗi vật báu có mười ức hằng hà sa các Quốc Độ Phật, mười ức trăm ngàn lầu quán, đài gác.

Mỗi lầu quán có mười ức trăm ngàn tòa sư tử Liên Hoa báu ở Cõi Phật. Mỗi tòa sư tử có mười ức trăm ngàn thần bảo Liên Hoa của Quốc Độ. Trên mỗi hoa sen có mười ức trăm ngàn Đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử. Mỗi Đức Như Lai phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười ức trăm ngàn cõi Phật.

Mỗi Cõi Phật có mười ức trăm ngàn công đức sư tử vô úy của Như Lai. Mỗi công đức vô úy có mười ức trăm ngàn chúng sanh cư trụ. Mỗi chúng sanh có mười ức trăm ngàn câu pháp cú nghĩa tam muội và các pháp của Phật.

Mỗi câu pháp cú nghĩa tam muội có ức trăm ngàn Kinh Pháp theo đó thiêu đốt trần lao. Cho đến các pháp môn thiền định cũng như vậy, trong mỗi pháp môn diễn nói vô lượng trí, tướng mạo, pháp bất thoái chuyển, vô số loại trí nghĩa vị không đồng.

Trong mỗi pháp luân được chuyển đều độ cho mười ức trăm ngàn chúng sanh đắc hạnh thuần thục. Mỗi Quốc Độ chúng sanh lại có mười ức trăm ngàn chúng sanh đắc hạnh thuần thục. Mỗi Quốc Độ chúng sanh lại có mười ức trăm ngàn Cõi Phật, mỗi Quốc Độ biến hóa tự có hướng thiện ác đưa chúng sanh loại đồng đến Phật Đạo.

Bồ Tát Đại Sĩ nhập tam muội này tự hiện vô lượng oai thần biến hóa, cảnh giới tam muội chưa từng có, chưa từng thấy. Những pháp biến hóa vô cùng lạ thường, chẳng phải pháp mà tâm ước lượng, chẳng phải pháp mà ý vẽ ra. Pháp đó, trong, ngoài, trung gian đều không xứ sở không thấy lúc đến cũng không thấy lúc đi.

Vì sao như vậy?

Đó là vì thể tự nhiên của các pháp. Bồ Tát tu hành trăm kiếp muốn chấm dứt cấu uế của mình, thực hành thệ nguyện của Như Lai gia hộ chúng sanh, Bồ Tát lại ở trong vô hạn lượng số kiếp không chấp, không trụ cũng không bị nhiễm. Lại cũng không thể lập thành danh tự, suy tìm căn bổn vĩnh viễn không có xứ sở.

Nếu có người muốn giả đặt phương tiện suy tư tìm kiếm cứu cánh của định này, biến hóa tạo ra hình tướng, nghĩa lý vô cùng sâu xa không thể nghĩ bàn thì mới chính là tương ưng với sự tu tập pháp của Chư Phật, chẳng phải pháp mà hàng La Hán, Bích Chi Phật tu tập.

Này Tối Thắng, Bồ Tát lại phải tư duy lý đó. Bồ Tát nhẫn nại khó khổ dạo trong tám nạn, quán tâm chúng sanh có ý ái dục, có người nhiều dục, có người ít dục đều biết tất cả.

Có tâm ngu si hay không có tâm ngu si, có nhiều hay có ít, Bồ Tát đều biết tất cả. Nếu chúng sanh kia có tâm ái dục, mê đắm nữ sắc, suy tư đo lường đẹp, béo, trắng.

Tâm vui thích không thể xa lìa, khi ấy Bồ Tát lại giả hiện phương tiện, rộng bày phương kế vì họ thị hiện để họ quán tưởng, ngộ rõ đường ác, bất tịnh. Bồ Tát ở trước chúng sanh hiện thân vô thường, bốn đại tan rã phơi bày tứ tán. Một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày hình thể sình trương hôi thối không sạch, hoặc thây chết máu thịt tiêu hủy, gân xương còn dính liền nhau.

Bồ Tát lại hiện vô số loại hình biến hóa khác, hoặc hiện xương sọ, xương tay chân mỗi thứ ở một nơi, lâu ngày biến chuyển trắng tợ như màu lông chim bồ câu, ngày tháng trôi qua lâu thì nát tan trở lại như đất.

Bồ Tát khiến chúng sanh quán như vậy xong, họ liền tự khai ngộ biết dục là sai lầm, biết rõ hạnh phàm phu đọa vào đường ác, chẳng thể quay về chánh đạo nên tâm hối hận tự cải đổi, không theo nghiệp trước mới hợp với pháp của Bồ Tát, tôn kính tu tập phạm hạnh, thể nhập cõi thanh tịnh, tẩy rửa cấu uế dâm dục.

Tu luyện thần khí, thành tựu pháp vô thượng chí chân Chánh Giác, thanh tịnh Quốc Độ của mình, giáo dưỡng chúng sanh. Đó là Bồ Tát quán tâm ái dục rồi nói pháp khiến họ được thành tựu đạo quả.

Bồ Tát phải biết, nếu có chúng sanh không có tâm ái dục, ý ràng buộc theo tiểu thừa không theo đại thừa thì Bồ Tát khuyến trợ họ thành tựu đạo Bình Đẳng Chánh Giác, dùng pháp trí tuệ bất nhị hướng đạo, chỉ dẫn cho họ biết con đường chánh, an lập nơi đại thừa không chấp nê nơi đạo tiểu thừa.

Họ từ vô số kiếp tích công lập đức, tu thiện không mệt mỏi nhưng tâm ý mê mờ sai lầm, không phân biệt chân ngụy nên nay mới tự ngộ biết không đến được cứu cánh.

Thế nào là đạo bất nhị của Bồ Tát?

Bồ Tát tu hành đạo bất nhị thường thanh tịnh mà không trụ chấp tịnh, trong tâm thanh tịnh, bên ngoài dạo chơi hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ Tát luôn tịch tĩnh mà bên ngoài hiện như loạn động, ở trong tịch tĩnh dạo chơi mà hóa độ chúng sanh.

Đó là đạo bất nhị. Bồ Tát nhập định xưa nay chưa từng sai lầm, từ định ý khởi, ngoài hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ Tát từ xưa bố thí tâm không hối tiếc, giữ gìn tâm ý kiên cố không nghĩ tưởng quả báo, ngoài giáo hóa chúng sanh khiến họ trừ bỏ ba tưởng.

Đó là đạo bất nhị. Giới luật của Bồ Tát xưa nay chưa từng khiếm khuyết, lại dùng luật cấm ngoài hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị.

Trí tuệ giáo hóa của Bồ Tát thật không giới hạn, bên trong kiểm soát tâm ý khiến không phân tán cũng dùng pháp đó giáo hóa chúng sanh khiến họ vượt qua đất rộng, không rơi vào đầm lo sầu.

Đó là đạo bất nhị. Bồ Tát tu tập chánh định tam muội nhẫn nhục, thị hiện thân ở nơi núi đầm, chốn không người tinh cần tu tập khổ hạnh, hoặc ở gần thôn xóm hiện thân đi khất thực.

Hoặc trải qua một năm cho đến trăm ngàn năm, hoặc trải qua một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp, ở trong đó thị hiện thân nhận lãnh vô lượng khổ. Khi đó nhân và phi nhân ở trong núi, hoặc loài quỷ La Sát có hai chân, bốn chân, vô số chân, mỗi tên đều cầm dao gậy đến xúc phạm Bồ Tát.

Hoặc dùng dao bén cắt mũi Bồ Tát. Mũi Bồ Tát rơi xuống lại mọc trở lại như quả Diêm Phù. Tối Thắng nên biết, quả Diêm Phù kia nếu hái một trái thì sanh ra hai trái, hái hai trái thì sanh ra bốn trái, hái bốn trái thì sanh ra tám trái, hái tám trái thì sanh ra mười sáu trái, hái mười sáu trái thì sanh ra ba mươi hai trái.

Lần lượt như vậy, cây toàn là trái, không còn thấy thân cây cũng không thấy cành lá, nhánh ngọn. Bồ Tát nhập định tu tập nhẫn như thế. Nếu có người đến cắt mũi Bồ Tát, cắt một thì sanh hai, cắt hai thì sanh bốn, cắt bốn thì sanh tám, cắt tám thì sanh mười sáu, cắt mười sáu thì sanh ba mươi hai.

Lần lượt như vậy, thân toàn là mũi không còn thấy thân hình, cũng không thấy tay, chân, đầu, mắt. Chúng sanh chỉ thấy vô số mũi, ngay lúc đó sanh niệm hối hận vì đã cắt mũi Bồ Tát, ưa muốn thấy thân lúc trước của Bồ Tát.

Khi đó Bồ Tát xả tam muội, tâm ý an tường từ định khởi, hiện trở lại thân hình như trước không khác, từ từ cử động hiện hơi thở ra vào, lại mở mắt như có lời muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc sát đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận bên Bồ Tát.

Bấy giờ Bồ Tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh, tùy thời thích hợp mà độ thoát cho họ. Bồ Tát trở lại nhập định tam muội, nội tâm tịch tĩnh không có niệm khác.

Lại có chúng sanh đến chỗ Bồ Tát cùng vây quanh mà móc mắt Bồ Tát. Mắt rơi ra liền sanh trở lại. Ví như giã nát ngọc lưu ly thanh bột nếu có người muốn nhặt tất cả bột lưu ly đó thì không thể được, ví như vô số quả Tỳ La rải đầy trên đất, giã nát như hột cải không thể lượm nhặt lên được nhưng mỗi hạt đều có ánh sáng phản chiếu với nhau, chúng sanh chỉ thấy thân thể Bồ Tát toàn là mắt, không còn thấy thân thể tướng mạo lúc trước, ngay khi đó sanh niệm hối hận vì việc đã làm liền tự trách, ưa muốn thấy thân lúc trước của Bồ Tát.

Khi ấy Bồ Tát xả tam muội, tâm ý an tường mà từ định khởi, hiện thân trở lại như cũ không khác, từ từ cử động thị hiện hơi thở ra vào như có điều muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc xuống đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận bên Bồ Tát.

Bấy giờ Bồ Tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh, tùy thời thích hợp mà độ thoát cho họ. Sau đó Bồ Tát trở lại nhập định tam muội, nội tâm tịch tĩnh không có niệm khác.

Lại có chúng sanh đến chỗ Bồ Tát tay cầm dao bén chặt đứt chân tay Bồ Tát. Chân tay Bồ Tát sanh ra lại như cây Cù Đa La. Cây Cù Đa La kia, nếu có người đến đốn chặt cành lá, nhánh ngọn thì các nhánh cây bị chặt rời khắp trên đất trong khoảnh khắc khảy móng tay theo hơi đất sống lại như cũ. Mỗi cành lá, nhánh ngọn đều thành cây.

Khi ấy Bồ Tát cũng như vậy, toàn thân đều là các chi chân tay không còn thấy thân hình lúc trước. Chúng sanh chỉ thấy toàn chân tay trên thân Bồ Tát, không còn thấy hình tướng của thân lúc trước, ngay khi đó sanh niệm hối hận vì việc đã làm liền tự trách, ưa muốn thấy thân hình lúc trước của Bồ Tát.

Bồ Tát liền xả tam muội, tâm ý an tường từ định khởi, hiện thân hình trở lại như trước không khác, từ từ cử động, hiện hơi thở ra vào, mở mắt như có điều muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc sát đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận Bồ Tát.

Bấy giờ Bồ Tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh tùy thời thích hợp mà độ thoát cho họ. Đó là nói Bồ Tát với người có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có nhiều hay ít đều biết tất cả.

Bồ Tát cũng không tự nghĩ:

Ta ở trong trần lao hao phí công sức của mình, cũng không nghĩ: Các chúng sanh này dễ khuyến dụ. Bồ Tát làm mà không thấy làm cũng không thấy có người nhận lãnh lời dạy.

Hai việc làm và giảng dạy tự thể đều là tự thể đều là hư tịch. Bồ Tát không thấy là một, cũng không thấy là chẳng phải một. Một tự thể chẳng phải một, huống chi nói có một gọi là một pháp. Tự đặt tên gọi giả nói là mắt. Mắt tự thể của nó là tên gọi giả.

Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với sắc, thanh, hương, vị, cảm xúc trơn mịn, và pháp cũng như vậy. Ngôn từ mà Bồ Tát dùng để nói một pháp đó là muốn khai pháp môn, mở bày vô lượng cửa dẫn đến pháp vô nhằm giáo huấn chúng sanh.

Bấy giờ Ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật: Thế nào là chúng sanh có tâm nóng giận, không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít, Bồ Tát đều biết tất cả?

Đức Phật bảo Ngài Tối Thắng: Bồ Tát Đại Sĩ dạo đến Thế Giới vô lượng Cõi Phật, ở mỗi Cõi Phật quán sát loại chúng sanh hữu hình, các loài bò, bay, máy, cựa. Loài sâu bọ, loài có hơi thở cho đến loài kiến có tâm nóng giận, không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít đều phân biệt, suy tính rồi cho thuốc.

Nếu có chúng sanh nhiều nóng giận thì hiện hóa để chỉ rõ pháp khổ, không, vô thường. Hoặc hiện ra cảnh thú, trùng nhai nuốt, rúc rỉa. Hoặc hiện cảnh họa giặc cướp, binh đao. Hoặc hiện cảnh nạn nước, lửa thiêu cháy.

Các biến hóa như thế không thể tính kể. Nếu tâm chúng sanh đó giác ngộ thì Bồ Tát tùy theo đó giáo giới. Chúng sanh nhận lãnh lời giáo hóa liền ở nơi đó được độ thoát. Nếu có chúng sanh thấy cảnh biến hóa vô thường mà tâm không giác ngộ thì khi ấy Bồ Tát lại dùng tuệ phương tiện nhập Nhẫn tam muội.

Tam Muội đó tên là Vô thường quán. Lại có tam muội tên Từ hàng phục khử khuể tam muội. Nếu Đại Bồ Tát nhập tam muội chánh thọ đó thì có thể hàng phục, trừ bỏ tâm nóng giận.

Nếu có loại chúng sanh cực ác như Quỷ Thần La Sát, cọp sói, giặc cướp tệ ác đến chỗ Bồ Tát muốn làm hại thì chưa đến nơi, ở giữa đường liền quay trở lại. Do vậy nên sức của Từ định che chở khắp Thế Giới, ức cai cõi đều nương nhờ tế độ. Người thể nhập được Từ tam muội có mười pháp độ.

Mười pháp ấy là gì?

Đó là trí tuệ thậm thâm thực hành vô lượng nghiệp. Nhớ rõ pháp tổng trì, tâm khó ngăn ngại, phá hoại. Tự thân không có tính lường, dùng pháp giới để lường tính mà thể nhập vào vô lượng pháp của Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã tu tập.

Dùng pháp ấn vô thượng để ấn chứng. Nương tựa lực Như Lai làm tăng trưởng lợi ích Cõi Phật. Luôn tự lập chí tịnh tu Đạo Tràng, kiến lập nghiệp Bồ Tát.

Người thực hành như thế là tương ưng với pháp luật, tương ưng với vô sở sanh, mắt được khai mở đột nhiên đại ngộ. Mắt tuệ thanh tịnh ĩnh viễn không còn bị bụi trần làm mờ mắt, đạt được chủng tánh của mắt.

Được mắt thanh tịnh của Phật, mắt tuệ tối thượng, mắt thấy sâu xa, mắt pháp thường định, mắt thiện tri thức dùng làm bảo hộ, mắt đạo thậm thâm, đạt mắt biện tài, lời nói không ngăn ngại.

Đạt được mắt không còn si, tâm không phân biệt bỉ thử cũng không do dự. Thể nhập mắt pháp môn hướng dẫn cho chúng sanh mù tối, phân biệt ý nghĩa mở bày pháp môn cam lộ, gần gũi chân thiện tri thức, thành tựu tâm đạo, cảnh giới đã chứng không thể chướng ngại cũng không người nào có thể hủy hoại.

Đó gọi là Bồ Tát phân biệt các nhãn thành tựu đạo nghiệp làm bạn lành cho người thế gian, hiển bày oai tướng, làm chỗ yên vui cho kẻ chưa sanh niệm lành, dùng pháp giáo hóa làm cho chúng sanh an lập căn lành vô ngại, công đức thanh tịnh sở nguyện tất có quả báo.

Nuôi dưỡng pháp chân chánh gặp pháp giải thoát, đoạn trừ lưới si, nổi mây dày trí tuệ khắp cả cõi hư không, dùng pháp Hiền Thánh ngộ rõ tâm cấu uế, chí nguyện đã phát luôn hiện tiền, tâm niệm đã phát trọn không có nạn si, tín căn kiên cố.

Công nghiệp vô tận, gần gũi tôn thờ Chư Phật, trừ bỏ tưởng khổ vui, tu tập tâm đạo sâu xa, đạt tuệ báu quý, cung phụng bậc trí như hương hoa vi diệu được gió thổi đi khắp nơi cho mọi người được nghe pháp, khiến người có tâm cấu ác đều được thanh tịnh.

Tối Thắng nên biết, nay ta ở trong cõi Diêm Phù Lợi, tại quốc thành Tỳ Xá Ly này, ta dùng mắt thịt quán cõi nước ở các phương thấy khổ não, sầu lo không nơi nào hơn xứ này nhưng lại ở đây hiện chủng tánh Như Lai.

Hiện nay chúng sanh ở đó không có hương thơm, chỉ có mùi hôi thối. Mùi xú uế ấy xong lên tận mười tám do diên trên hư không. Chư Thiên vốn là người, người là mầm gốc của Chư Thiên.

Chư Thiên ấy cũng biết quán túc mạng: Công đức ta đã tích tập đều từ thân người. Nếu không từ thân người gieo trồng gốc công đức thì không thể có phước báo. Tối Thắng nên biết, khi ấy Chư Thiên mỗi vị đều tụ lại có ý muốn xuống thế gian nên đều bay trên hư không. Khí hôi thối ấy kết thành mây dày khắp nơi.

Chư Thiên ngửi mùi tanh hôi bất tịnh của thế gian liền quay trở lại không xuống nhân gian. Vì vậy nên người có mùi hương tinh khiết không thể kham trụ ở đó.

Bồ Tát Đại Sĩ thực hành tâm đại từ bi khi giáo hóa không chọn lựa Quốc Độ là thơm hay thối, là tịnh hay bất tịnh, cũng không có tâm nghĩ rằng: Ta nay ưa muốn kham nhẫn giáo hóa nơi dó, không kham nhẫn giáo hóa nơi kia. Như ta ngày nay ở tại đây, cõi Nhẫn, giáo hóa chúng sanh duyên đã hoàn tất.

Chư Như Lai Đẳng Chánh Giác ở mười phương đều từ xa khen ngợi, mỗi vị tự ở Thế Giới của mình bảo với bốn bộ chúng: Ở phương đó, chỗ đó có Đức Phật tên đó, danh hiệu là Năng Nhân Như Lai trụ tại cõi nhẫn đó như trụ trong năm đỉnh nước sôi, trong năm ngọn kích sắt bén nhọn, trong năm lưỡi dao kiếm, trong năm ngọn lửa cháy dữ dội, trong năm đường hoảng loạn, trong năm chỗ không thể cứu, trong năm gánh nặng nạn tai. Đức Phật ấy có thể trụ trong đó giáo huấn chúng sanh thật là kỳ diệu, phân biệt các pháp Ba la mật Hiền Thánh.

Chư Thiên thanh tịnh thân không cấu uế đến nơi gặp mây hôi thối liền quay trở lại Trời, về trong cung điện ra hậu viên, vào trong ao Vô Ưu bảy ngày bảy đêm tự tắm gội mà vẫn lo mùi hôi thối cõi người vương bám trên thân, tâm không còn ưa thích muốn dạo chơi cõi người.

Khi ấy hương của Chư Thiên theo gió bay xa, lan xuống cõi hư không một vạn tám ngàn do tuân. Hương ấy lại còn lan xuống hơn số đó, gặp khí nùi liền lan xuống cõi hư không, mùi hương thơm đến tận hai ngàn do tuần.

Chư Thiên tuy có hương công đức nhưng không bằng hương trì giới của bậc vô dục. Bồ Tát phải quán phước lộc ẩm thực của Chư Thiên là vĩnh cửu nhưng khi phước hết mới hối hận thì đã không kịp, nên chỉ ham muốn ở cõi người hưng khởi nghiệp công đức.

Khi ấy ý chẳng lẽ còn thấy có hương thơm, mùi thối hay sao. Bồ Tát Đại Sĩ cũng như vậy, tuy ở trong năm ngọn lửa cháy khổ não dữ dội, tâm vẫn không mệt mỏi, nhàm chán cũng không hối hận, ý luôn nhớ nghĩ độ thoát chúng sanh. Nếu có Bậc Hiền Thánh thần thông dùng thần lực của mình đưa một người phàm lên cõi hương xông ướp ở hư không rồi đưa trở lại nhân gian, khí hương xông ướp trên thân thể người ấy suốt hai mươi mốt ngày mới tan.

Giới đức trọn vẹn của bậc vô dục trải qua nhiều kiếp hương giới đức ấy hoàn toàn không mất. Thế nên bậc Bồ Tát Đại Sĩ đồng trụ với thế gian, ở lâu dài tại thế gian, lại ở thế gian làm ngọn đuốc sáng, tuy cần lao mà không cho là khổ, ý đạo hưng thạnh, tâm không khuyết giảm. Đó gọi là Bồ Tát quán sát chúng sanh có tâm nóng giận hay không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít đều biết tất cả.

Khi ấy Ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ Tát nhất tâm tư duy quán sát chúng sanh có tâm ngu si hay không có tâm ngu si, có nhiều hay ít đều biết tất cả?

Đức Phật dạy: Khi đó Bồ Tát nhập minh tuệ chánh thọ tam muội quán khắp Thế Giới đến tận bờ mé hư không. Ở trong đó có loại chúng sanh một chân, hai chân cho đến vô số chân, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chiên Đà La, Ma Hưu Lặc, nhân hay phi nhân đều biết rõ căn duyên của họ, phân biệt rõ ràng chi tiết, suy tư sâu xa thấy rõ một cách rốt ráo như thật.

Nếu có chúng sanh nhiều ngu si thì vì họ lập phương tiện diễn nói pháp mười hai nhân duyên căn bổn: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên cánh lạc xúc, cánh lạc duyên thống thọ, thống duyên ái, ái duyên thọ thủ, thọ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, sầu ưu khổ não.

Với người có tâm loạn tưởng, bất tịnh thì dùng trí vô tận diễn nói pháp thuận nghịch: Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì cánh lạc xúc diệt, cánh lạc diệt thì thống thọ diệt, thống diệt thì ái diệt, ái diệt thì thọ thủ diệt, thọ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì tử diệt, tử diệt thì không còn sầu lo, khổ não, các hành bất tịnh nữa.

Lậu là họa lớn, Niết Bàn là vi diệu. Bồ Tát quán các tướng mạo rồi vì họ diễn nói pháp cứu cánh chấm dứt nguồn cội khổ như thế.

Nếu có chúng sanh tâm si sâu dày, thức không sáng suốt thì Bồ Tát dần dần đưa họ vào đạo, dẫn đến nơi an tĩnh, lại giảng rõ pháp bổn vô, pháp không sanh diệt, pháp không chấp đoạn, phân biệt tướng hưng suy của ba đời.

Thức của họ không thể diệt si hành quá khứ nên Bồ Tát mở bày pháp môn soi sáng làm xuất hiện diệu trí, hưng khởi đầy đủ công đức Phật Đạo, không bỏ việc làm thiện tri thức của Bồ Tát, thường đến pháp đường nhàn tĩnh của Bồ Tát, quán nhập pháp thâm yếu của các Đức Như Lai. Lại phải tư duy mười pháp kiên cố.

Thế nào là tư duy mười pháp kiên cố?

Gần gũi Pháp Thân Phật tạng, thâu nhiếp niệm không thể nghĩ bàn lại thành một. Ngộ rõ không, không niệm cũng không thấy có nhiều, tự khởi tự diệt cũng không có chủ, các công hạnh đã làm không có đầu mối, không thể hộ trì phát sanh các đạo.

Cảnh giới hư không của pháp giới cũng không cùng tận. Cởi bỏ sự ràng buộc, tự cởi bỏ tâm chấp trước chúng sanh. Nương căn lành thành tựu nhất thiết trí. Siêu việt cảnh giới, thành tựu tất cả trí tuệ vô lượng, trí tuệ mẫn tiệp.

Tâm sung mãn nguyện Bồ Tát. Thực hành theo ngôn hạnh đã làm của Chư Bồ Tát thanh tịnh, chưa từng quên mất nghĩa lý giáo pháp của Như Lai. Không bỏ tướng của tất cả pháp tánh, những pháp nhỏ nhiệm ý đã thể nhập không sai lầm.

Tâm như sức kim cương không thể phá hoại. Với pháp thù thắng biệt truyền của Bồ Tát mà Chư Phật đã trao truyền không có chúng sanh nào đáng có thể độ.

Pháp bất nhị đã nói không thể chuyển dời. Đó gọi là mười pháp kiên cố của Bồ Tát mau thành tựu đạo quả, giữ đạo không khó. Này Tối Thắng, dó gọi là pháp thượng diệu vô tận của Bồ Tát, cần phải nhớ nghĩ tu hành.

***