Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ

PHẬT THUYẾT KINH TỐI THẮNG

HỎI VỀ VIỆC TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

CỦA BỒ TÁT THẬP TRỤ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI MỘT

PHẨM DIỆT TÂM
 

Bấy giờ Bồ Tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: Thế nào là Bồ Tát quán nghĩa lý vô thường, phân biệt không, ngộ rõ trong ngoài tự thân là vô chủ, tâm tự tại, việc làm đều đầy đủ?

Lúc ấy Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Tâm hành của Bồ Tát không chấp trước, giảng luận các pháp không chướng ngại, biết rõ nguồn gốc của con người là pháp mộng ảo, liễu tri tâm niệm thiện ác của tất cả chúng sanh, nhân duyên báo ứng qua lại như tịnh bất tịnh, khổ lạc, đẹp xấu, thuận nghịch, trói mở, định loạn…

Bồ Tát đều có thể biết. Trước tiên quán chiếu chúng như hư không không thật, lại dùng pháp túc mạng thông theo căn tánh phù hợp nói pháp khiến họ biết không tịch. Thần túc của Bồ Tát không ngăn ngại, thấy khắp tất cả. Đó gọi là Bồ Tát quán thông đạt bổn vô.

Hoặc hiện ra thân Phật mà nhập diệt độ, vì phương tiện thị hiện nên không vĩnh viễn diệt độ, thấu tỏ ngọn nguồn từ xưa đến nay của chúng sanh vốn thanh tịnh.

Hoặc vì để thuyết pháp, Bồ Tát ở nơi khác thị hiện cảnh phân ly tán loạn để chúng sanh biết rõ xứ sở bất tịnh, dơ uế ác hiểm, khiến cho người có tâm chấp thường trừ tâm ái chấp. Bồ Tát lại khen ngợi pháp lậu tận đưa đến Niết Bàn, nếu không trừ sạch lậu hoặc cũng không thủ chứng Niết Bàn.

Bồ Tát lại vì chúng sanh khen ngợi pháp vô lậu, tất cả sự mê loạn đều không đưa đến tận tuệ. Bồ Tát tu tập tâm đại từ mẫn, lắng đọng tâm tư thể nhập thiền định, trụ tâm vắng lặng thể nhập Tam Thiền.

Tứ Thiền cho đến tứ không định, đạt được pháp không, vô tướng, vô nguyện, có công đức tu tập ba mươi bảy pháp đạo phẩm, dùng phương tiện khéo léo khai hóa tất cả chúng sanh, quán chúng sanh đang ở trong tám nạn, khiến họ trừ bỏ trần lao vĩnh viễn không còn cấu uế.

Bồ Tát lại dùng đạo Hiền Thánh không chướng ngại đi vào sanh tử độ chúng sanh đến Niết Bàn, cũng dùng pháp trí tuệ thiện xảo giáo hóa hàng Thanh Văn, Duyên Giác, theo đó khuyến tấn đưa họ đến Đạo Tràng.

Nếu có người trong tâm phiền não rối loạn thì dạy họ tu tập tịch tĩnh không khởi các tưởng. Nếu có chúng sanh có tâm chấp trước hữu số, vô số thì thị hiện vô sở hữu, cũng khiến họ đạt được tâm không chấp trước.

Bồ Tát tuy dạo quanh qua lại các cảnh giới nhưng không khởi tưởng chấp trước, không bị chướng ngại, luôn giảng nói pháp vi diệu cho chúng sanh. Pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi, pháp thiện ác đều liễu tri cũng không bị chướng ngại.

Lại dùng trí tuệ vô lậu không ngăn ngại thấy rõ nguồn cội pháp tâm hành của chúng sanh, tùy theo hình tướng của họ mà an lập pháp giải thoát, tùy theo tập tục mà dạy khiến họ hiểu rõ pháp, không để tâm ý khởi tưởng sanh diệt, dùng tuệ phương tiện phù hợp nên luôn được tự tại.

Này Tối Thắng, đó gọi là Bồ Tát thực hành quán niệm, hiểu rõ gốc của thân trong ngoài đều vô chủ, luôn nhớ nghĩ tu hành, tâm không nhàm chán, tự đạt được an lạc vĩnh viễn, cũng khiến cho chúng sanh nương nhờ phước đức đó thực hành tâm đại từ bi không khiếp nhược, sau đó mới thông tỏ thân là vô chủ, pháp trong ngoài thân cũng như vậy.

Bồ Tát xem các chúng sanh ấy như xương thịt của mình, có mong cầu gì trước là vì chúng sanh sau mới vì mình, tâm từ mẫn tế độ chắc thật không hư dối, đều khiến cho chúng sanh tạo công đức vi diệu, tâm thức tịch tĩnh cũng không lay động, quán sát thân này nên không thể tham trước.

Bồ Tát lại vì chúng sanh mà nói pháp bất tịnh, thân này như thành trống, hư ảo không bền chắc, thân như hào khe luôn luôn tuôn tràn, thân như lửa thiêu cháy củi khổ không ngừng, cũng như sông hồ tuôn ra biển không bao giờ đầy.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát giảng dạy cho chúng sanh tư duy phân biệt biết điều bất tịnh, cũng khiến họ khởi tưởng bất tịnh, thể nhập sâu xa biện tài không ngăn ngại, đạt được pháp tổng trì không bị quên mất, pháp âm đã nghe không quên thứ lớp.

Luôn theo chân lý suy tư tam muội chánh thọ, luôn thể nhập các pháp Ba la mật tịch tĩnh, hàng phục ma oán, trừ tưởng tà loạn.

Này Tối Thắng, Bồ Tát quán thân là như thế, biết rõ trong ngoài thân không có xứ sở, ảo hóa như hình bóng, tiếng vang, dợn nắng.

Thể nhập pháp Chân Đế phân biệt pháp giới, xa lìa tâm tham muốn cõi đời, siêng năng tu tập đạo Chánh Giác không, vô tướng, vô nguyện, biết tất cả pháp sanh cũng vô sanh, vô sanh cũng sanh.

Tuy trụ trong sanh mà không có hai, tùy theo chỗ sanh của chúng sanh mà khai đạo hộ họ, giữ chí dõng mãnh không bỏ tâm đạo, ngồi dưới cội thọ Vương mà tự phát thệ nguyện: Ta nay tự thế nếu ta không thành Đẳng Chánh Giác, trọn không đứng dậy khỏi chỗ ngồi này. 

Bồ Tát giữ tâm bình đẳng không bỏ Phật Đạo, luôn trụ trong ba cõi mà cũng không chấp trước, tự quán nội pháp, quán vật của tha nhân cũng như thế, nhớ nghĩ mong cầu trí tuệ thanh tịnh thẩm suy chân lý, liễu tri thường tưởng đều là vô thường tưởng.

Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ Tát tự niệm: Như ta ngày nay do đâu mà thọ lãnh thân hữu lậu?

Đó là do nhiều kiếp tích chứa công đức không mệt mỏi, tập hợp trí nghiệp nên mới có thân này. Bồ Tát không nhớ nghĩ theo đạo Thanh Văn, Duyên Giác.

Nếu có người đến mà có thú hướng đó, tâm Bồ Tát không sợ hãi cũng không nghi ngờ, thực hành bố thí, trừ bo các loạn tưởng, nội tâm tự tư duy: Do công đức này, khi ta đắc quả Đẳng Chánh Giác thì thân ta tướng hảo trang nghiêm màu hoàng kim. 

Bồ Tát lại giáo huấn chúng sanh khiến họ giữ cấm giới, không đọa đường ác, tâm nhu thuận nhẫn nhục, các căn không loạn, gia công tinh tấn, bỏ tâm tự đại, tâm luôn trụ trong tam muội chánh thọ không rong ruổi, tu tập thành tựu đại trí tuệ, lìa xa trần dục.

Dùng phương tiện giáo huấn thông đạt không giới hạn. Với nghiệp thánh trí chưa từng sót mất, trụ tâm kiên cố như chỗ trụ của Phật, biện tài phân biệt tùy thuận ứng hợp với nghĩa, đạt tâm tổng trì không làm tổn giảm Đạo Giáo, làm sung mãn tất cả sở nguyện cảu chúng sanh, tinh tấn điều phục người thoái chuyển khiến họ không đọa lạc, ngôn giáo giảng dạy rõ ràng tương ứng với cấm giới.

Tự thân đã không có tâm oán hận nên không nói lỗi người, thực hành Bồ Tát Đạo luôn tự xét lỗi mình thà mất thân mạng không nói lời hủy nhục bỉ thử. Nếu có chúng sanh tự đến quy mạng, Bồ Tát không lấy làm vui.

Giả sử không có người đến cũng không buồn, nghe điều thiện không vui, nghe điều ác không giận, thuận theo tất cả làm cho họ đến Đạo Tràng thành tựu Phật Đạo.

Bồ Tát không trái nghịch cấm giới, trước cứu nguy cho người không cầu thân mình an ổn, bố thí bảy báu mà tâm không hối tiếc, thể nhập pháp yếu sâu xa, thần thông không ngăn ngại.

Bồ Tát lại dùng thần lực quán căn tánh cạn sâu, cao thấp của chúng sanh, phân biệt thánh tuệ rồi vì chúng sanh diễn bày, các việc làm không chấp trước cũng không cùng tận.

Tuy ở trong pháp duyên khởi mà tâm không nhiễm trước tất cả các lậu, không cho là mình chứng đắc, quán sát pháp tánh không có ngô ngã, chánh pháp tịch nhiên thanh tịnh vô cấu.

Bồ Tát không trụ nơi pháp hưng suy của ba đời, không thấy quá khứ vĩnh viễn diệt tận, không thấy tương lai có đối tượng hay không có đối tượng, không nghĩ hiện tại là thường tồn.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát quán sát khắp vô số vô lượng pháp không sanh khởi, pháp không hoại diệt, thân hành thanh tịnh mà không làm ác, khẩu nói lời thanh tịnh, niệm luôn chí thành, ý luôn trong sáng không phạm mười điều ác.

Đó gọi là Bồ Tát tương ứng với pháp Ba la mật, được Chư Phật hiện thân thọ ký. Tuệ căn vòi vọi, công đức vô cùng, ở trong Thập Trụ vị chánh định không thoái chuyển, phụng hành pháp không trái nghịch, tánh tình hòa thuận, đầy đủ các hạnh, đạt được mười lực của Phật, chí như Kim Cương, hiểu rõ gốc các pháp có khởi có diệt, thấu tỏ tâm bệnh nặng nhẹ của mọi người. Tánh hạnh của chúng sanh bất đồng, thọ lãnh quả báo ra sao Bồ Tát đều có thể biết rõ.

Vì sao nói Bồ Tát biết rõ quả báo, tay giữ tuệ sáng trừ bỏ u mê cho chúng sanh, tư duy quả chứng?

Tối Thắng nên biết, Bồ Tát cầm gươm bén trí tuệ thẩm suy chặt đứt khối nghi hoặc, những hạnh đã làm đều là quả chứng, do quả chứng đó mà tu hành bố thí rộng rãi, giữ giới đầy đủ như bình kiết tường, tâm thực hành nhẫn nhục như Bồ Tát Tần Đầu, sức tinh tấn siêu việt như vua Thiện Nhân, thiền định thể nhập không tuệ vi diệu.

Bồ Tát là như vậy, quả chứng tuệ tâm không gì có thể làm lay động. Bồ Tát tuệ thí bình đẳng không hai, không thấy ngô ngã khởi vô số tưởng, với người và vật cũng bình đẳng. Thấy người, vật bình đẳng nên đắc các pháp bình đẳng, liễu tri pháp bình đẳng nên Chánh Giác cũng bình đẳng.

Với giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ đều hiểu rõ là bình đẳng không phải phân ra nhiều phương diện. Bồ Tát liễu tri tất cả pháp sanh cũng không có sanh, sanh cũng là không sanh, không sanh cũng là sanh.

Này Tối Thắng, đó gọi là Bồ Tát quán thông đạt tận cùng tất cả pháp lớn chân chánh, tâm không hưng khởi trần lao rồi tương hợp với chúng, xả bỏ tất cả sanh, không thấy có gì sanh, tự thân đã bố thí mà không thấy có gì thí.

Hoặc có Bồ Tát tu hạnh bố thí để cầu đạo, lại vì tưởng chấp mong muốn được diệt độ. Đó gọi là tạp độc vẫn còn trong sanh tử. Ta nhớ thuở xưa vô số kiếp về trước từng ở Thế Giới đó làm Chuyển Luân Vương, Phi Hành Hoàng Đế, theo ý muốn vật tự nhiên hiện ra trước mặt không trái ý.

Các thế hệ con cháu nối nhau trải qua sáu mươi chín trung kiếp. Trong khoảng thời gian đó, ta thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ. Dựng các Tòa Tháp bằng bảy báu cao đến tận Trời Phạm Thiên đầy khắp Thế Giới. Lúc đó, ở thế gian có Đức Phật Hiệu là Dũng Tấn. Chúng La Hán tùy tùng có chín mươi ức trăm ngàn na thuật vị, bậc Bồ Tát Đại Sĩ nhiều không thể tính lường.

Ta tự thân cung kính cúng dường tứ sự: Y phục, thức ăn uống, giường chiếu đồ nằm, các loại thuốc thang trị bệnh. Của cải Quốc Gia, vợ con, voi ngựa, bảy báu, người hầu của mình và truyền lệnh cho nhân dân đều đem đến cúng dường Đức Phật Thế Tôn đó.

Lúc ấy Ta bố thí có tâm chấp trước, do đó mà rơi vào chốn sanh tử. Luôn tôn vinh công đức của mình nên không đạt được quả báo. Do thuở ấy tạo công đức mà khởi dục chấp nhỏ như sợi lông nên nay vẫn còn tồn tại chi mạt kiến.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát tuệ thí thấy thí cũng là hữu thí, thí cũng là vô thí, cũng không thấy thí, cũng không thấy chẳng bố thí. thí cũng là chẳng thí, chẳng thí cũng là chẳng thí. Với pháp thí thấy bình đẳng nên được pháp bình đẳng.

Hiểu rõ thí, vô thí mới tương ưng với tự nhiên. Giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ cũng như vậy. Liễu tri trí không tịch cũng không có trí. Với trí, vô trí như thế mới tương ưng với trí tuệ. Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ Tát lại phải tư duy Pháp Bảo.

Thế nào gọi là Pháp Bảo?

Đó là nói bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám pháp trực hạnh, thần thông tam muội, các pháp Ba la mật.

Mỗi mỗi pháp đều phân biệt mà không có ngô ngã, trừ sạch mê mờ nên biết được ánh sáng lớn, tu tập thành tựu trí tuệ khai hóa chúng sanh, trút bỏ gánh nặng âu lo nên không do dự, phụng tu cấm giới, thân ý vắng lặng.

Lại phải tư duy tu tập tuệ bảo, cũng không sanh tâm có ý nương tựa. Ý lìa ba đời cũng không có trong ngoài, không nương vào các nhập, bốn đại, ấm cái. Dùng hoa bảy giác ý làm vòng hoa, dùng tám phẩm Hiền Thánh làm quả báo, dùng Đạo Tràng trang nghiêm làm nhà cửa.

Hướng đạo chúng sanh đến Ba la mật đạm bạc, vắng lặng không già, bệnh, chết cũng không ưu hỷ, các phiền não đau khổ, một mình đi trong ba cõi mà không sợ hãi, quán người và vật đều là thanh tịnh.

Ngã, nhân thanh tịnh nên người, vật cũng thanh tịnh. Liễu đạt thanh tịnh mà không sở hữu. Bồ Tát từ sơ phát tâm đến Thập Trụ địa, phải niệm thanh tịnh, khởi ý vi diệu. Ở trong đó trọn không khởi sanh lại ý dâm, nộ, si. Cũng không có bố thí, tâm phải quán rõ chúng sanh. Lại cũng không khởi tâm nhị thừa thì chính là bậc thượng thủ ở trong đại chúng.

Tuy ở nơi giàu sang mà không cống cao, cứu hộ chúng sanh, không từ bỏ chúng sanh. Tâm Bổn vô mỗi mỗi không thật, tâm chẳng phải hữu tâm, cũng không bị ràng buộc.

Đó là ý kim cương của Bồ Tát không thể phá hoại, nuôi lớn pháp lành khiến không sót mất, tư duy thâm diệu phát thệ nguyện rộng lớn không thể nghĩ bàn, quán sát tất cả tánh không thấy có pháp khởi, cũng không thấy có ai thành tựu, quán việc đời như ảo đều không phải chân thật.

Dùng thanh tịnh quán biết đó là điên đảo, không theo các pháp tương ưng hay không tương ưng, cũng không xả bỏ. Người có tạp niệm mong cầu không thấy những pháp tích tụ nên thân hiện tại, không thấy các pháp mà nhân đó rời khỏi thân quá khứ, vị lai.

Quá khứ cũng không kết thúc, vị lai cũng không đầu mối, phân biệt hiện tại đều không xứ sở, suy tư tìm hiểu chánh pháp mà không thể đắc. Bồ Tát trụ tâm phải ở nơi điên đảo. Tưởng bất thành là pháp yếu của Bồ Tát. Sáu mươi hai kiến là pháp yếu của Bồ Tát.

Trầm ngâm do dự là pháp yếu của Bồ Tát. Mong cầu phước báo Cõi Trời là pháp yếu của Bồ Tát. Vào địa ngục mà không nghĩ có khổ là pháp yếu của Bồ Tát. Biến thân vào trong đường ngạ quỷ và súc sanh là pháp yếu của Bồ Tát.

Bồ Tát tuy ở trong địa ngục ngũ Vô gián mà nhổ trừ thống khổ cho chúng sanh, khiến họ an trụ nơi giải thoát mãi mãi an lạc. Bồ Tát cũng không sanh diệt họa loạn tưởng, tư duy pháp giới cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Người do pháp sanh, pháp do người khởi, tự khởi tự diệt cũng không có gốc tử. Người không rời tánh, tánh không rời người. Người, vật đều tự nhiên không thấy dấu vết. Ngô ngã, thọ mạng cũng như thế. Ngô ngã tự nhiên, các pháp tự nhiên.

Pháp vốn tự nhiên, đạo cũng tự nhiên. Người quán thông đạt không, ngộ được như thế thì đạt đạo tích tự nhiên. Nói về đạo tích tự nhiên thì diệu quán vô nhị, cũng không thấy hai pháp đối đãi.

Bồ Tát lại có Tốc tật tam muội. Người thể nhập tam muội đó thì trong khoảnh khắc khảy móng tay dạo khắp mười phương hằng sa các Cõi Phật, lễ bái cúng dường Chư Phật Thế Tôn rồi trở lại chỗ cũ mà mọi người đều không hay biết.

Ngồi trên tòa suy tư thì như pho tượng, nhập tam muội chánh thọ đến ức trăm na thuật hằng hà sa Cõi Phật về phương Đông lễ bái cúng dường Chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi lắng nghe nhận lãnh pháp vi diệu, rồi đột nhiên lại đến vô lượng Cõi Phật ở phương Nam, sau đó trở lại vô lượng Cõi Phật ở phương Bắc.

Bốn phương góc và phương Trên, phương Dưới cũng như thế. Bồ Tát ở trong đại chúng ngồi yên khởi niệm mà không ai hay biết.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát nhập định ý chánh thọ trong khoảng thời gian khảy móng tay dạo khắp vô lượng cõi ở mười phương, đột nhiên trở lại chỗ cũ. Lúc ấy chúng sanh ngồi ở đó mà không ai hay biết.

Như Ta hôm nay ở trong đại chúng diễn nói pháp nghĩa, có hai ức Bồ Tát không rời khỏi tòa mà mỗi vị đều dạo đến Cõi Phật ở mười phương, nay mỗi vị đều đã trở lại chỗ ngồi của mình. Chúng sanh nghe pháp không ai có thể biết được. Đó đều do hạnh thuần thục của Bồ Tát.

Bấy giờ Ngài Tối Thắng bạch Đức Phật: Tam muội mà các bậc Chánh sĩ đó thể nhập có tên là gì mà khiến các Bồ Tát đi về nhanh đến như vậy?

Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Ngoài tam muội mà Bồ Tát thể nhập còn có tam muội tên là vô ngại thông, là pháp Chư Phật Thế Tôn thường trụ. Chư Như Lai nhập tam muội đó rồi trong khoảnh khắc hơi thở ra vào đến ức trăm ngàn cai hằng hà sa đẳng Cõi Phật.

Cũng khiến Chư Phật Thế Tôn ở mười phương đều đến trong Thế Giới đó mà không thấy có chúng sanh nào hay biết. Hoặc đem tất cả nước biển ở mười phương dời đến trụ giữa hư không như viên ngọc sáng mà không ai thấy, cũng không làm cho các loài sống trong nước hoảng sợ. Đó gọi là vô ngại thông tuệ tam muội.

Lúc ấy, trong hai ức vị Bồ Tát thượng thủ có một vị Bồ Tát tên Hải Tạng ngồi trên tòa tự nghĩ: Như Lai hẳn muốn ta hiện thần lực của tam muội đó.

Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến thẳng tòa ngồi cao trước đại chúng, cúi đầu lễ Đức Phật cùng các bậc Thượng tôn rồi đứng trước Đức Phật chắp tay thưa: Phật Đạo sâu xa không thể dùng ví dụ nói hết, đạo vô thượng chánh chân thật là khó sánh. Nay con quán thấy tất cả Bồ Tát và bốn bộ chúng, Chư Thiên, các tôn thần đến trong hội và thấy các Bồ Tát ở trong đại chúng cất tiếng rống Sư Tử.

Lại nữa, những người khát ngưỡng giáo pháp đến trong hội rất lâu nay gặp được điều khó gặp muốn thưa hỏi. Nếu họ được thấy nghe liền phát thệ nguyện.

Đức Phật bảo Ngài Hải Tạng: Ông cứ theo chỗ nghi ngờ mà hỏi. Như Lai đều sẽ giảng nói phân biệt chỗ nghi vấn cho ông, để các Bồ Tát và mọi người trong Pháp Hội đều được hỷ lạc. Như Lai sẽ dùng sức nóng từ gươm trí tuệ thiêu rụi rừng rậm ngu si của ông.

Lúc đó Bồ Tát Hải Tạng lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con hướng về tòa cao tâm suy tư tự nghĩ rằng hai ức vị Bồ Tát này tích tập điều lành đã rất lâu, đầy đủ công đức, hàng phục tâm ý, chí đều hướng về đạo pháp, do các gốc lành nên đạt được chánh định.

Các vị ấy từ vô số kiếp theo hầu Chư Phật lễ bái cúng dường. Các bậc Bồ Tát thần thông Chánh Sĩ đó vì chúng sanh đã từ mẫn bố thí voi, ngựa, bảy báu, làm cho chúng sanh loại đều thành tựu Phật Đạo. Hoặc có vị vì tâm không kiên cố, thoái chuyển với sự tu tập tam muội định ý chánh thọ kia.

Lại có Bồ Tát vì trần lao mà đi sâu vào sanh tử muốn làm cho chúng sanh vĩnh viễn không còn đau khổ. Hoặc có Bồ Tát nhập Từ tam muội làm cho chúng sanh đó mãi mãi lìa bỏ tâm ganh ghét đố kỵ. Lại có Bồ Tát khởi tâm bi làm cho chúng sanh hiểu rõ nghĩa vô thường.

Hoặc có Bồ Tát nhập Hỷ định ý khiến người trông thấy đều hiểu rõ pháp Không tịch. Lại có Bồ Tát phát tâm kiên cố như kim cương khiến chúng sanh đều thành tựu tâm nguyện đã khởi phát. Lại có Bồ Tát chí hướng rộng lớn đưa tất cả chúng sanh vào Cõi của mình.

Lại có Bồ Tát dùng thân pháp bổn khiến chúng sanh mới phát tâm, đang phát tâm hay đã phát tâm đều thiện. Lại có Bồ Tát ở tám nơi không nhàn phát triển Tam Bảo khiến không đoạn tuyệt. Hoặc có Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo theo chí hướng chúng sanh mà ứng hóa thích hợp.

Hoặc có Bồ Tát vui trụ trong không tuệ, quán thân này như tường vách. Hoặc có Bồ Tát tâm ý chất trực, việc làm thanh tịnh không dơ uế. Lại có Bồ Tát tánh tình chí mật, du hành các phương mà không sót mất.

Lại có Bồ Tát tâm hướng đạo nhất đạo, không để chúng sanh nghe tên gọi Tam Thừa. Lại có Bồ Tát chí vui trong sáng, gột rửa trần lao cho chúng sanh khiến họ mãi mãi không còn dơ uế.

Bấy giờ Thế Tôn ở trong đại chúng tán thánh Bồ Tát Hải Tạng: Lành thay! Lành thay! Chỉ Bồ Tát Hải Tạng mới có thể ở trước Như Lai, trong chúng hội cất tiếng Sư Tử rống, tán thánh định ý mà các Bồ Tát thể nhập để chúng hội đều nghe biết.

Định ý tam muội chánh họ mà các vị Chánh Sĩ ấy thể nhập không thể nghĩ bàn, không ai có thể đạt được, chẳng phải pháp mà hàng nhị thừa có thể suy lường. Bồ Tát tích tập công đức không vì tự thân mà nhớ nghĩ độ cho chúng sanh, những ai đang chịu khổ não.

Giả sử ba ngàn đại thiên cõi nước, ở trong đó gió nổi lên khắp Thế Giới như gió núi tràn đến khắp nơi rất nhanh, có người tu tập đạo tích, tâm dõng mãnh phát nguyện ở trong đó qua lại tìm đạo tu tập thì có thể thành tựu mà không bị chướng ngại.

Huống chi Bồ Tát có thần thông tam muội chánh thọ không thể nghĩ bàn của bậc Chánh Sĩ, trong khoảng thời gian chuyển niệm có thể đến hằng hà sa vô lượng cõi nước. Bồ Tát lại dùng pháp Lục Độ, Thập Thiện giáo hóa chúng sanh, lấy thiện đạo giảng huấn.

Tâm Bồ Tát mãi mãi an lạc không thể lay động, chí hạnh thanh tịnh cũng không sai loạn, nếu khởi tâm tu tập không ai có thể sánh bằng. Đó là do Bồ Tát đời trước đầy đủ công đức, chí hạnh trong sạch không phân biệt chủng loại, tâm từ vô lượng không cùng tận.

Tất cả các pháp luôn tự tồn tại, chúng sanh không thấu đạt cho là có hưng suy. Pháp pháp tự sanh, pháp pháp tự diệt. Pháp không sanh pháp, pháp không diệt pháp. Pháp sanh, pháp diệt tánh không lay động. Đó là đạo của bậc Bồ Tát Chánh Sĩ, chẳng phải pháp mà hàng phàm tục có thể theo kịp. Các loài chúng sanh ở trong sanh tử không đạt Bổn vô cho là pháp tánh có biến dị.

Họ cho phải như vậy nhưng việc đó không phải như vậy. Hàng Bồ Tát từ sơ phát tâm đến Thập Trụ vị thực hành bố thí, trì giới đầy đủ công đức đạt được quả báo hành tựu đạo, do ngộ lý quán không nên biết hư vô tịch tĩnh.

Quá khứ, vị lai xiển dương đạo pháp, việc làm thần diệu đều thành tựu, thể nhập các địa tu tập của Chư Bồ Tát, đến vô lượng Cõi Phật thù thắng khuyên chúng sanh phát tâm vượt qua bờ sanh tử, quán thấy rõ căn tánh tùy thời thích hợp khiến không ai không được độ.

Bồ Tát hoặc dùng oai nghi lễ tiết thế tục, hoặc dùng thần túc, đạo tuệ thần thông giáo dưỡng chúng sanh loại, phân biệt sự hưng suy của sáu tình trần lao. Chỗ khởi của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Mắt là vô thường cũng không phải chân thật, đi cũng không xứ sở, đến cũng không dấu tích.

Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy. Với pháp quá khứ, tương lai, hiện tại cũng không thấy diệt mà chúng sanh ngu si mê lầm chấp tưởng thường hằng.

Vì sao?

Tối Thắng nên biết, bậc Bồ Tát Đại Sĩ có quyền trí đầy đủ, tu tập vô lượng các pháp Ba la mật, thành tựu đức tin, rộng tu các pháp, được thấy các Đức Như Lai đều tán thán, trừ bỏ vọng tưởng, đắc vô lượng trí, biện tài vô ngại, luôn có tâm tàm quý, quán pháp không khởi, không thấy dao động.

Bồ Tát hoặc dùng tướng tốt làm trang nghiêm Cõi Phật, làm hưng khởi pháp không trái nghịch, thể nhập sâu xa tất cả đạo trí, thưa hỏi nghe pháp không có tâm nhàm chán thấy đủ, quyền trí dõng mãnh hàng phục chúng ma. Hoặc đến Cõi Hữu Tưởng, Vô Tưởng.

Hoặc đến cung điện của Phạm Thiên, Đế Thích. Hoặc đến hằng sa cõi nước ở mười phương, du hành các phương làm hưng khởi Phật Pháp. Việc làm của Bồ Tát huyền diệu sâu xa không thể nghĩ bàn, trừ bỏ tâm kiêu mạn cũng không có tâm thị phi.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Ngài Tối Thắng: Bồ Tát Đại Sĩ tu tập vô lượng pháp môn Chánh Giác: Bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám pháp trực hạnh. Nhớ rõ pháp tổng trì không thiếu sót, dùng pháp ý chỉ hữu vi vô vi, hữu ký vô ký, hữu lậu vô lậu, đầy đủ các pháp vô úy ở mười phương, tam muội chánh thọ trừ bỏ ấm cái, quán rõ phân biệt bất thoái chuyển địa.

Bồ Tát lại dùng sức tam muội chánh thọ với năm mươi bảy pháp tuệ nghiệp siêu việt phải nhớ nghĩ khiến không quên mất.

Nếu có người bố thí cầu phước báo Chư Thiên, hoặc cầu ở trong cung quỷ thần, loài rồng, hoặc bốt hí vì muốn sanh lên Cõi Trời Tứ Thiên Vương. Tất cả đều không phải chân thật, không đạt được điều mong cầu của mình.

Khi ấy Thế Tôn nói kệ bảo Ngài Tối Thắng:

Thân tịnh không làm ác

Không nói bốn pháp sai

Ý không nhớ nghĩ tội

Là Bồ Tát Tổng trì.

Truyền giảng vô lượng đức

Mãi không tâm xan tham

Thần thông trừ mê ám

Là Bồ Tát Tổng trì.

Khi dạy người bố thí

Không khiến họ cầu mong

Nguyện mất, đọa tam đồ

Công lao không tổn giảm.

Ta xưa cầu Chánh Giác

Chấp tưởng qua nhiều kiếp

Phương tiện vượt tử sanh

Dạo xem trong ngũ đạo

Lại ở kiếp lâu xa

Tạo lập cội công đức

Do không được tự tại

Nên chìm bốn vực sông

Nay tuy đã thành Phật

Pháp Vương ba ngàn cõi

Do duyên trừ tưởng niệm

Được nhập huyền lộ môn

Đạo Tràng phóng kim quang

Ức thần đến quy mạng

Thiện thần theo Sa Môn

Đều đến tự quy kính.

Cho nên, này Tối Thắng, Bồ Tát phải chuyên tâm nhớ nghĩ trừ bỏ tưởng mong cầu, ngộ rõ nhất tướng vô hình của pháp giới, làm trang nghiêm Cõi Phật, không đoạn trí tuệ sáng suốt, không khuyến khích việc bố thí cho tất cả chúng sanh. Không có bố thí, không có Hiền Thánh, hiểu rõ vô sở sanh, tâm bình đẳng trụ đạo Nhất Thừa không thấy nhiều thừa khác.

Này Tối Thắng, Bồ Tát lại phải phân biệt Tứ Đế.

Khổ do duyên gì sanh lại do duyên gì mà diệt?

Bồ Tát theo lý tư duy quán sát phải mong diệt trừ các nỗi khổ căn bản của thân năm ấm này. Tập sanh ra khổ, phải trừ sạch sáu mươi hai tà kiến điên đảo, dùng vô lượng trí ngộ rõ chúng không có xứ sở. Bồ Tát lại dùng pháp Tứ Đế quán mười hai nhân duyên từ đâu sanh và từ đâu diệt, dần dần tư duy mới biết tịch tĩnh.

Hành vi của thân, miệng, ý là vô chủ, không có thọ nhận, trao truyền. Không có quá khứ, vị lai cũng không có chỗ trụ. Từ quả Tu Đà Hoàn trở lên đến quả Chánh Giác cũng như vậy, phân biệt rõ Cõi Dục, Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc.

Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ Tát tư duy biết pháp thiết yếu về khổ, pháp thiết yếu về tập phát sanh khổ, pháp thiết yếu về sự diệt khổ và pháp thiết yếu của con đường tu tập thoát khổ.

Bồ Tát tư duy như thế, lại phải phân biệt mười sáu Thánh pháp sâu xa khó lường, ba mươi sáu vật dơ uế bất tịnh, tuyên dương trí tuệ của đạo quả vô thượng. Diễn bày, giảng dạy, từ từ dẫn đạo cho chúng sanh.

Với pháp tạng thậm thâm của Chư Phật, Bồ Tát đều thông đạt, lời giảng nói không bao giờ sai dối. Bồ Tát hiện thân trưởng giả giàu sang quý phái do bố thí mà quy tụ, dạy cho chúng sanh khắp nơi đều cải tà quy chánh, thành tựu đạo quả, hoặc dùng hương, hoa, đèn, phan lọng bài trí chiếu sáng khắp chốn.

Lại dùng thần túc cảm hóa Chư Thiên, tuyên dương Phật Đạo khiến họ đều theo Nhất Thừa. Ta do vậy trong nhiều kiếp không bị giới hạn. Bồ Tát lại hiện thân Thanh Văn, Duyên Giác phương tiện sống ở núi non đầm trạch mà không thị hiện diệt độ, lại vào trong cung rồng giáo hóa các loài rồng được kiến đạo.

Như vậy, này Tối Thắng, việc làm công đức của Bồ Tát không thể nói cho hết, chẳng phải là điều miệng có thể nói, ý có thể tư duy.

Có khi Bồ Tát sanh vào nhà Chuyển Luân Vương, trên trời dưới thế đều theo sự hướng đạo mà tu tập Thập Thiện. Bồ Tát nếu thấy chúng sanh trong cảnh đói nghèo thì dùng cam lộ khiến cho những người nghèo túng được đầy đủ, xa rời mầm mống phiền não trong cảnh ái dục. Công đức Bồ Tát không thể suy lường như thế.

Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ Tát phải nhớ nghĩ một ngàn bảy trăm pháp môn định ý khiến cho các bậc vô trước thành tựu Chánh Giác. Lại có pháp môn Quang minh định ý khiến Bồ Tát đạt được pháp Tổng trì hiển yếu.

Lại có pháp môn Thọ ấm cái định ý khiến ba ngàn Thế Giới đều được che phủ. Lại có pháp môn Vũ thế thần châu định ý phóng trăm ngàn ức vô số ánh sáng. Mỗi ánh sáng đều hiện ra vô số loại âm thanh khổ, không, phi thân vô ngã.

Người nghe âm thanh đó đều phát tâm bất thoái vô thượng. Lại có pháp môn Thủy tinh vô tượng định ý khiến mười ngàn Thế Giới bỗng nhiên đồng một màu, lại phát ra vô số tiếng nhạc. Người nghe tiếng đó tự biết được túc mạng, biết mình từ nơi chốn nào sanh lại.

Lại có pháp môn Nguyệt thạnh mãn túc quang minh ở trong chúng một mình soi sáng như mặt trăng giữa các tinh tú. Lại có pháp môn Nhật tinh quang minh khai mở mắt chúng sanh khiến họ biết pháp tu tập.

Lại có pháp môn oai thần quang minh trao truyền pháp đại thừa quyết cho người chưa biết. Lại có pháp môn Vô kiến đảnh tướng quang minh định ý vì ở trong chúng tối tôn nên được mọi người tôn kính. Lại có pháp môn Thiệt tướng quang minh định ý vì trong chúng được tin dùng không bị phỉ báng.

Như vậy, này Tối Thắng, Bồ Tát thể nhập một ngàn bảy trăm pháp môn định ý quang minh vô cùng thanh tịnh khiến vô số chúng sanh nghe pháp mà từ xưa đến nay chưa từng nghe thấy ngay trên tòa ngồi đều phát tâm đạo vô thượng chánh chân.

Bấy giờ, cách đó vô lượng hằng sa Thế Giới về phương Đông có một vị Bồ Tát tên là Bảo Dũng cùng các quyến thuộc vây quanh sau trước tới cõi Ta Bà, đến trước nơi Phật ngự, cúi đầu lễ chân Phật rồi đứng sang một bên, chắp tay hướng về Đức Phật nói kệ tán thán:

Mặt từ hòa thù thắng

Tối tôn trong cõi người

Không cấu uế trần lao

Do thí, vô lượng đức

Quang minh chiếu trăm ức

Trong đẹp, trí không lường

Với mọi người từ bi

Pháp Vương ba ngàn cõi.

Chúng con hôm nay đến

Muốn nghe tuệ cam lộ

Phật giảng, con được độ

Như khát tìm suối nước.

Khi Đạo Sư vừa đến

Như đóa hoa Ưu Đàm

Chúng con, người nhiều bệnh

Vì cứu nên hộ trì.

Nay con đến xứ này

Trải qua vô số cõi

Đói khát đã quá lâu

Nguyện Phật thương diễn nói.

Khi ấy Bồ Tát Bảo Dũng nói kệ khen ngợi Đức Phật xong lại lễ chân Phật rồi mỗi vị thẹo thứ tự ngồi xuống.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các vị trong hội: Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy tư! Ta sẽ nói, phân biệt hạnh không sanh diệt của Bồ Tát mà phần đầu, phần giữa, phần cuối đều thiện. Hãy ghi nhớ trong tâm.

Các Bồ Tát bạch Phật: Chúng con vui mừng mong được nghe.

Đức Thế Tôn dạy: Đạo là phi sanh, sanh cũng là phi đạo. Vô tưởng là đạo tưởng, cũng là phi đạo. Vô là chánh đạo, hữu là phi đạo. Không chấp là đạo, chấp trước là phi đạo. Có ý muốn thành đạo, đó cũng là phi đạo. Không thành tựu, không mong cầu mới gọi là đạo. Ý ràng buộc với căn môn cũng là phi chân đạo. Trừ căn môn mới gọi là đạo.

Lúc ấy các Bồ Tát trong hội lại khởi ý nghĩ: Vì sao nói danh tên gọi là hành vô sanh diệt, lại nói chánh đạo?

Nay nói đến Niết Bàn thì Niết Bàn chẳng lẽ là phi đạo?

Bấy giờ Thế Tôn biết ý niệm của đại chúng liền bảo: Niết Bàn khác với đạo chăng?

Các Bồ Tát thưa: Là chẳng khác.

Thế Tôn dạy: Nên nói Niết Bàn chẳng khác với đạo.

Vì sao?

Vì Ta nói đó chính là Niết Bàn, đó chính là đạo, đó là vô vi, đó là diệt tận, đó là nơi an ổn khoái lạc.

Lại nữa, nếu nói đó là danh sắc lục nhập, khi danh sắc lục nhập đó hưng thạnh thì đạo hưng thạnh, khi danh sắc lục nhập diệt thì đạo diệt, điều đó lại là đạo Niết Bàn chăng?

Các Bồ Tát thưa: Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

Đức Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Như ta đã nói, đạo chẳng phải là Niết Bàn, Niết Bàn chẳng phải là đạo. Sanh vốn là diệt, diệt chẳng phải là sanh. Đạo là gốc của Niết Bàn nhưng Niết Bàn cũng chẳng phải là đạo. Danh sắc lục nhập cũng như thế.

Bấy giờ chúng hội nghe pháp vô sanh diệt hạnh định ý quán đó xong đều đạt được tâm vô sanh diệt, không còn thoái chuyển.

***