Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Vấn Bồ Tát Thập Trụ Trừ Cấu đoạn Kết - Phẩm Mười Một - Phẩm Diệt Tâm

PHẬT THUYẾT KINH

TỐI THẮNG VẤN BỒ TÁT

THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI MỘT

PHẨM DIỆT TÂM
 

TẬP MỘT
 

Bấy giờ, Bồ Tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa: Bồ Tát quán sát vô thường phân biệt nghĩa không như thế nào?

Hiểu rõ thân mình trong ngoài không có chủ tể, tâm được tự tại, việc làm đầy đủ?

Đức Thế Tôn bảo Tối Thắng: Tâm Bồ Tát ở chỗ không tham đắm, luận giảng các pháp không bị ngăn ngại, biết rõ căn tánh người là pháp mộng huyễn, biết rõ tâm nguyện thiện ác của chúng sinh, và nhân duyên báo ứng của sự đến đi, hoặc tịnh, bất tịnh, khổ vui, tốt xấu, thuận nghịch, trói buộc, định loạn, cảnh giới, biết tất cả đều là hư vô không thực.

Lại nữa, Bồ Tát bằng túc mạng thông, thuyết pháp đúng lúc, khiến chúng sinh biết được chỗ không tịch, thần túc không ngăn ngại đều thấy tất cả, đố là Bồ Tát quán biết nguồn gốc của nó là không, hoặc hiện thân Phật rồi diệt độ, chỉ dùng phương tiện, hoàn toàn không diệt độ, biết hết chúng sinh xưa nay thanh tịnh.

Hoặc hiện thân rã rời phân tán khắp nơi để mà thuyết pháp, cho biết đó là bất tịnh nhơ cấu uế, làm cho những người chấp thường diệt trừ tham ái, lại khen ngợi người dứt sạch hết các lậu hoặc đến cửa Niết Bàn. Giả như các lậu chưa đoạn sạch thì không chứng được.

Lại vì chúng sinh khen ngợi vô lậu, tất cả việc lành đạt đến tuệ vô tận, thực hành đại từ bi an trụ thiền định trong trong thiền thứ ba, thứ tư, rồi đạt đến tứ không định, chứng được pháp không, vô tướng vô nguyện, tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng phương tiện quyền xảo hóa độ tất cả, quán các chúng sinh kia ở trong tám nạn.

Dứt bỏ các phiền não hoàn toàn không cấu nhiễm, bằng đạo Hiền Thánh không ngăn ngại, vào trong sinh tử khiến đến Niết Bàn, cũng dùng pháp đại trí quyền tuệ, hóa độ hàng Thanh Văn và Duyên Giác, tùy theo khả năng tiến đến Đạo Tràng, hoặc ở trong phiền não loạn động dạy người thực hành tịch tĩnh không khởi các tưởng, hoặc có chúng sinh chấp trước các loại phiền não hay không phiền não hiện không thực có.

Khiến cho mọi người đạt đến chỗ không còn chấp trước, tuy ở trong cảnh giới nhưng qua lại khắp nơi, không khởi tướng chấp trước, không có sự ngăn ngại, thường nói pháp vi diệu cho chúng sinh.

Hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, pháp thiện pháp ác, đều biết rõ không có ngăn ngại, hiểu rõ gốc pháp tâm hành của chúng sinh, tùy theo hình dáng của họ mà đưa vào vô vi, tùy theo tập tục dạy họ hiểu rõ pháp, đối với tưởng của tâm, ý, thức, không còn sinh diệt, bằng quyền tuệ giáo hóa, thường được tự tại.

Như vậy Tối Thắng! Bồ Tát thực hành pháp quán, hiểu rõ nguồn gốc của thân trong ngoài không có chủ tể, thường nhớ tu hành không nhàm chán hoàn toàn an vui, lại khiến cho chúng sinh mong được phước đức ấy, thực hành đại từ bi không còn khiếp sợ, sau đó mới hiểu thân không có chủ tể, và pháp trong ngoài cũng như vậy, xem các chúng sinh ấy như xương thịt của mình.

Hoặc có sự cầu xin thì trước họ sau mới đến mình, tâm đại bi vững chắc cứu độ tất cả làm cho được công đức thù thắng, tâm thức vắng lặng không bị lay động, quán sát nguồn gốc của thân không còn tham chấp, lại vì chúng sinh mà nói bất tịnh, thân này như bức thành hoàn toàn trống rỗng, thân như khe suối luôn luôn tuôn chảy.

Thân như lửa dữ đốt cháy củi không ngừng, cũng như sông hồ chảy về biển không đầy, thế nên Tối Thắng! Bồ Tát chỉ dạy về cách suy nghĩ phân biệt biết về bất tịnh, cũng làm cho người học được tưởng bất tịnh, vào sâu biện tài cũng không ngăn ngại, đạt được pháp tổng trì không bị quên mất, lời dạy đúng theo thứ lớp, thường được tam muội chánh định sâu xa.

Thường vào nơi vắng lặng và các Ba la mật, hàng phục các ma oán bỏ tà niệm loạn tưởng, thế nên Tối Thắng! Bồ Tát quán thân biết rõ trong ngoài không có nơi chốn, cũng như huyễn hóa, ảnh tưởng, âm vang, sóng nắng, ánh chớp, nhập vào pháp chân đế, phân biệt pháp giới, xa lìa tham đắm.

Siêng tu chánh giác, biết tất cả các pháp không, vô tướng, vô nguyện, sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, tùy ở chỗ sinh mà cũng không có hai, dù ở chỗ nào khai mở hướng dẫn hóa độ chúng sinh, quyết chí dũng mãnh không bỏ đạo tâm, ngồi dưới cây Bồ Đề lập thệ nguyện.

Hôm nay ta nguyện thề, nếu ta không thành Chánh Đẳng Giác quyết không rời khỏi chỗ này, giữ tâm bình đẳng, không bỏ Phật Đạo, thường ở ba cõi cũng không lệ thuộc, tự quán pháp của mình và người khác cũng như vậy, mong cầu trí tuệ thanh tịnh sâu xa, biết rõ tưởng của thường đều là tưởng của vô thường.

Lại nữa, Tối Thắng! Bồ Tát nhớ nghĩ như ta ngày nay thọ thân hữu lậu do đâu mà có?

Bởi do nhiều kiếp tích chứa công đức không thành, tập họp trí nghiệp mới có thân này, không nghĩ đạo Duyên Giác và Thanh Văn, nếu có người đến gặp mình thì tâm không lo sợ cũng không nghi ngờ, thực hành bố thí từ bỏ các loạn tưởng, tự mình suy nghĩ, khi ta thành đạo.

Thân có tướng tốt trang nghiêm màu hoàng kim, dạy dỗ chúng sinh giữ gìn cấm giới không đọa vào đường ác, nhẫn nhục thuận đạo, các căn không khởi không loạn, siêng năng tinh tấn, bỏ tâm tự đại, tam muội chánh định tâm không tán loạn, thành tựu đại trí xa lìa trần tục, bằng lời dạy khéo léo để đạt đến không cùng cực.

Việc làm của Bậc Thánh trí chưa từng lầm lỗi, ở chỗ vững chắc như chỗ của Phật, biện tài phương tiện tùy thuận theo đúng nghĩa lý, tâm ghi nhớ tất cả không làm sai lời dạy của đạo, làm mãn nguyện chúng sinh, không còn tiến đến thoái chuyển không bị đọa lạc, giáo pháp nói ra cùng nhau giữ gìn, tự mình không hiềm khích không nói lỗi của người.

Những lời dạy bảo phù hợp với giới luật, thực hành đạo Bồ Tát thường xét lỗi mình, thà bỏ mạng sống không nói lời chia rẽ, nếu có chúng sinh đến xin quy y cũng không lấy làm vui, nếu họ không đến cũng chẳng lo buồn, nghe điều thiện không vui nghe điều ác chẳng giận.

Tùy thuận tất cả quyết đến Đạo Tràng thề thành Phật Đạo, không trái cấm giới, trước cứu nguy ách cho người không tự cầu an, ban cho bảy báu mà không hối tiếc, thâm nhập giáo pháp thần thông vô ngại, lại dùng thần lực quán căn cơ sâu cạn cao thấp của chúng sinh, phân biệt thánh tuệ vì đó mà thuyết pháp.

Làm mà không chấp trước cũng không cùng tận, tuy tâm duyên theo các lậu nhưng không bị đắm nhiễm, không lấy đó làm chứng đắc, quán sát pháp tánh mà không có ngã, chánh pháp vắng lặng thanh tịnh không còn vướng mắc, ba đời thay đổi, pháp không chỗ trú, nhìn về quá khứ hoàn toàn không còn, không xét đời vị lai có chướng ngại hay không có chướng ngại, không nghĩ hiện tại có sự tồn tại.

Như vậy, này Tối Thắng! Bồ Tát quán khắp ức triệu, pháp không chỗ khởi pháp không chỗ diệt, thân thực hành thanh tịnh không làm ác, miệng nói lời tịnh tâm thường chí thành, ý trong sạch không làm mười điều ác, đó là Bồ Tát ứng hợp với Ba la mật.

Liền được Chư Phật thọ ký, tuệ căn rộng lớn công đức đầy đủ, Bồ Tát bậc thứ mười định không thoái chuyển, phụng trì chánh pháp không sai trái, tính tình hòa thuận việc làm đầy đủ, được mười lực của Phật chí như kim cang, biết rõ nguồn gốc của pháp có khởi có diệt, hiểu rất cả tâm bệnh nặng nhẹ của người, biết rõ bao nhiêu chúng sinh tánh hạnh không đồng, thọ lãnh quả báo thảy đều biết rõ.

Bồ Tát thọ quả báo như thế nào?

Dùng trí tuệ sáng suốt trừ bỏ tối tăm, suy nghĩ quả đã chứng được. Tối Thắng nên biết, cầm kiếm hiểu biết chặt bỏ nghi ngờ, các việc đã làm đều vì chứng quả, do chứng quả ấy mà tu hành bố thí khắp nơi, trì giới đầy đủ như bình an lành, tâm hành nhẫn nhục như Đại Sĩ Tần Đầu, tinh tấn siêu việt như Vua Thiện Nham, nhập vào thiền định vi diệu như Bồ Tát Không Tuệ, chứng quả tâm tuệ không thể dời đổi, Bồ Tát bố thí bình đẳng không hai, không thấy ngã của ta có bao nhiêu tưởng.

Đối với người và vật đều bình đẳng, người và vật bình đẳng thì được các pháp bình đẳng, biết pháp bình đẳng thì Chánh Giác bình đẳng, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đều bình đẳng không sai khác, hiểu tất cả sinh không có chỗ sinh, sinh cũng không sinh, không sinh cũng không sinh, hiểu sinh không sinh mới phù hợp với pháp tánh.

Như vậy, Tối Thắng! Bồ Tát quán sát rõ tất cả các pháp chân chánh, không khởi phiền não mà cho đầy đủ, bỏ tất cả sinh mà không thấy chỗ sinh, đã từng bố thí không thấy sự bố thí. Hoặc có Bồ Tát bằng sự bố thí mà cầu đạo, lại bằng tưởng đắm trước mà mong diệt độ, đêu do tạp độc trở lại nơi sinh tử, chấp ngã từ xưa vô số kiếp.

Đã từng ở cõi này làm Chuyển Luân Vương Hoàng Đế Phi Hành, tùy theo ý niệm tự nhiên hiện trước mặt không dám sai phạm, con cháu kế tục trải qua sáu mươi chín trung kiếp, thời gian đó thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, dựng tháp bảy báu cao đến Phạm Thiên đầy cả Thế Giới.

Ở Thế Giới đó có Đức Phật Hiệu là Dũng Tấn, có chín mươi ức trăm ngàn na do tha La Hán tùy tùng, Bồ Tát Đại Sĩ không thể tính hết, ta đích thân cúng dường tứ sự, áo mền, thức ăn, giường nằm đồ ngồi, thuốc thang, đất nước, của cải, vợ con, voi ngựa, bảy báu, tôi tớ, binh lính và nhân dân, hết làng cúng dường Đức Thế Tôn ấy.

Khi ấy, ta bố thí nhưng có tâm đắm trước, do đó nên đọa lạc vào sinh tử, mất hết công đức bố thí ấy nên không có quả báo, tính ra công đức làm lúc đó thì nhỏ như một sợi lông, ngày nay có tồn tại cũng không thấy được, như vậy tối thắng!

Bồ Tát bố thí, bố thí cũng không bố thí, không thấy bố thí cũng chẳng thấy không bố thí, bố thí cũng chẳng bố thí, người bố thí bình đẳng thì được pháp bình đẳng, hiểu rõ thí và không thí chính là tự nhiên, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng như vậy. Biết rõ trí không tịch cũng không có trí, đối với trí và vô trí đều là trí tuệ.

Lại nữa, này Tối Thắng! Bồ Tát suy nghĩ pháp bảo.

Thế nào là pháp bảo?

Đó là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo, thần thông tam muội, các Ba la mật, phân biệt từng loại không có ngã sở, từ bỏ tối tăm khiến biết trí sáng, lập vững trí tuệ khai hóa chúng sinh, bỏ các gánh nặng tâm không còn do dự, tu trì cấm giới, thân tâm tịch tĩnh.

Lại còn suy nghĩ, lập vững trí tuệ quý báu, cũng không do tâm sinh mà bị lệ thuộc, ý lìa ba đời cũng không trong ngoài, không bị lệ thuộc nơi ấm cái, bốn đại, các nhập chứng đắc diệt độ mà không thấy diệt độ, bằng hoa bảy giác chi làm vòng hoa, tám phẩm Hiền Thánh dùng làm quả, trang nghiêm Đạo Tràng dùng làm nhà cửa.

Dẫn dắt chúng sinh đật đến vô vi, đạt đến tịch nhiên không già bệnh chết, cũng không có các khổ não vui buồn, vượt qua ba cõi mà không sợ hãi, quán người và vật đều thanh tịnh, ta và người thanh tịnh thì người và vật cũng thanh tịnh, hiểu rõ thanh tịnh là không thực có.

Bồ Tát từ lúc mới phát tâm đến nay, phải nhớ nghĩ thanh tịnh khởi tâm vi diệu, trong thời gian ấy, hoàn toàn không sinh tâm dâm dục, sân giận ngu si, cũng không đem tâm nhiễu loạn chúng sinh, cùng không sinh tâm đối với hàng nhị thừa, làm vị thượng thủ ở nơi đại chúng, dù ở trong giàu sang cũng không cao ngạo, luôn che chở không bỏ chúng sinh.

Tâm vốn là không thảy đều chẳng thực, tâm không có tâm cũng không trói buộc, đó là tâm Kim Cang của Bồ Tát, không gì làm hư hoại, nuôi dưỡng pháp lành khiến không mất mát, suy nghĩ sâu xa, thệ nguyện rộng lớn không thể nghĩ bàn, xét tất cả tánh không thấy sự sinh khởi cũng không thấy sự thành tựu, quán việc huyễn hóa ở đời đều không chân thật, dùng quán thanh tịnh biết là điên đảo.

Không lệ thuộc các pháp, thích ứng không thích ứng đều bỏ cả, người có nhiều mong cầu không thấy hiện tại có sự tập họp, không thấy quá khứ vị lai có sự tan rã, qua khứ không đầu mối, vị lai cũng không đầu mối, phân biệt hiện tại đều không nơi chốn, xét tìm chánh pháp cũng không nắm bắt được.

Bồ Tát lập ý ngăn chận điên đảo, không thành vọng tưởng là mục đích của Bồ Tát, vào sáu mươi hai tà kiến là mục đích của Bồ Tát, vào thân kiến, giới thủ, tà kiến là mục đích của Bồ Tát, trâm ngâm do dự là mục đích của Bồ Tát, cầu mong phước Trời là mục đích của Bồ Tát, hoặc vào địa ngục không chấp sự khổ là mục đích của Bồ Tát.

Hoặc háo thân vào trong đường ngạ quỷ, súc sanh là mục đích của Bồ Tát, Bồ Tát tuy ở trong địa ngục vô gián vẫn dốc lòng cứu độ chúng sinh thoát khổ, đạt đến vô vi, an lạc lâu dài, cũng không bị những nguy hiểm về sinh diệt loạn tưởng, suy nghĩ pháp giới cũng không thể được.

Vì sao?

Vì người do pháp sinh, pháp do người sinh, tự sinh tự diệt cũng không có sự chết, người không rời tánh, tánh không rời người, người, vật tự nhiên cũng không thấy dấu vết, ngã tuổi thọ của ta cũng như vậy, ngã của ta tự nhiên thì các pháp tự nhiên, pháp tự nhiên nên đạo tự nhiên, hiểu được như vậy thì đạt được không quán.

Liền được tự nhiên đạt đến đạo, đạo tự nhiên đạt đến diệu quán không hai, cũng không thấy hai, Bồ Tát lại có tam muội rất nhanh, nhập vào tam muội này, trong một khoảng khắc đi khắp hằng hà sa cõi nước Chư Phật trong mười phương, lễ bái cúng dường Chư Phật Thế Tôn, trở lại chỗ cũ mà không ai biết cả.

Ngay tại chỗ ngồi cũng không đổi tư thế nhập vào tam muội chánh định đi đến ức trăm na do tha hằng hà sa cõi nước Chư Phật ở phương Đông, lễ bái cúng dường Chư Phật Thế Tôn, thăm hỏi lắng nghe giáo pháp vi diệu, bỗng nhiên hiện lên vô lượng hằng hà sa Cõi Phật ở phương Đông lễ bái cúng dường Chư Phật Thế Tôn, lại hiện qua vô lượng cõi nước ở phương Nam, trở lại vô lượng cõi nước ở phương Bắc, bốn phía trên dưới cũng như vậy.

Ở trong chúng dù ngồi đó hay xuất qua chỗ khác không ai biết cả, như vậy Tối Thắng! Bồ Tát vào định ý tam muội này, ở khoảng khắc đi đến vô lượng cõi nước khắp mười phương, bỗng nhiên trở lại chỗ cũ, khi các vị đó ngồi chúng sinh không biết, như ta ngày nay ở trong đại chúng diễn thuyết nghĩa pháp, có hai ức Bồ Tát không rời chỗ ngồi nghe pháp mà không ai biết cả, do hạnh Bồ Tát thuần thục.

Khi ấy Bồ Tát Tối Thắng ở trước bạch Phật: Các vị Chánh Sĩ này đã nhập vào tam muội gì khiến cho các Bồ Tát qua lại khắp nơi mau chóng như thế?

Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Tối Thắng: Hãy để lại tam muội mà Bồ Tát đã nhập. Lại có tam muội tên là Vô Ngại Thông là chỗ mà Chư Phật Thế Tôn thường cư trú, Như Lai nhập tam muội này rồi trong một hơi thở đi khắp ức hằng hà sa cõi nước Chư Phật, cũng khiến cho Chư Phật nơi mười phương đi đến cõi này.

không nhiễu loạn chúng sinh nên không ai biết cả, hoặc đem tất cả nước biển khắp mười phương di chuyển lên hư không giống như treo ngọc sáng ai cũng thấy cả, không làm cho các loài chủng tộc có kinh sợ gì cả, đây gọi là tam muội thông tuệ.

Lúc ấy, ở trong hai ức vị Đại Sĩ thượng thủ, có một Bồ Tát tên là Hải Tạng, ngay tại chỗ ngồi suy nghĩ: Như Lai chắc sẽ khiến mình hiện thần lực tam muội, liền ngay chỗ ngồi đứng dậy, đi đến tòa cao trước chúng hội, đảnh lễ Phật và các bậc dẫn đầu, đến trước Đức Phật chắp tay thưa: Phật Đạo sâu xa không thể ví dụ được, đạo vô thượng chân chánh thật khó sánh kịp.

Như ngày nay, con thấy tất cả Bồ Tát và bốn bộ chúng các Tôn Thần, Trời và những người đến trong hội thấy Bồ Tát này ở trong đại chúng rống lên tiếng rống Sư Tử. Vả lại, mọi người khát ngưỡng pháp của Đức Như Lai đã lâu rồi, đời nay khó gặp, con có điều muốn hỏi, nếu được Đức Như Lai cho phép con mới dám thưa.

Đức Thế Tôn bảo Hải Tạng: Ông nên hỏi theo nghi ngờ của mình, Như Lai sẽ phân biệt rõ ràng cho ông, khiến các Bồ Tát và các người trong hội đều được vui mừng, dùng lửa lớn của kiếm trí tuệ để thiêu đốt rừng rậm ngu si của ông.

***