Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tôn Giả Hộ Quốc Hỏi Về đại Thừa

PHẬT THUYẾT KINH TÔN GIẢ

HỘ QUỐC HỎI VỀ ĐẠI THỪA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thi Hộ, Đời Tống
 

PHẦN BỐN
 

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ rồi bảo Tôn Giả Hộ Quốc: Nếu có người đối với Bồ Tát thừa không nương pháp thực hành thì người có lỗi ấy sẽ được người không nương pháp kính mến. Người biếng nhác được người biếng nhác kính mến.

Người vô trí được người vô trí kính mến, như vậy họ kính mến lẫn nhau, tham đắm lợi dưỡng, ganh ghét quí tộc, biếng nhác cuồng loạn, thêu dệt hai lưỡi, nịnh hót người khác, dối trá cha mẹ và sư trưởng, hoặc vào thị thành các thôn xóm, không vì lợi ích chúng sanh để giáo hóa mà chỉ nói dối ta là đại trí nghe nhiều hiểu rộng để mê hoặc hữu tình.

Chỉ cầu tài lợi, khinh bỏ pháp thiện nên chẳng được gì.

Như đồ đựng bị vỡ nên không thể dùng cất chứa, oán ghét mọi người, nghe tin lời tà, dối trá quá đổi, phải nói là trái, trái nói là phải, đối với chánh pháp của Phật tâm không ưa thích, sanh vào nhà bần tiện dòng họ thấp kém.

Vì thấy chút lợi nên mới đầu Phật để cầu xuất gia và được làm Tăng, hành phi phạm hạnh, ở trong giáo pháp Phật hoàn toàn không có sự thành tựu, huống chi là trí lớn.

Phật bảo Tôn Giả Hộ Quốc: Hạng người như vậy không nên nói pháp, vì việc thiện của Trời người họ còn không thể tiếp nối, thì đối với bồ đề làm sao thành tựu được.

Khi ấy, Thế Tôn lại bảo Tôn Giả Hộ Quốc: Có tám hạng người xa lìa bồ đề không được nói pháp thù thắng vi diệu cho họ.

Hộ Quốc bạch: Tám hạng đó là những ai?

Xin Thế Tôn giảng nói: Phật bảo:

1. Là hạng người sanh ở biên địa.

2. Là hạng người sanh trong nhà bần cùng.

3. Là hạng người sanh trong nhà hạ tiện.

4. Là hạng người xấu xí ngu si.

5. Là hạng người đủ mọi trói buộc thân tâm sầu lo.

6. Là hạng người bỏ người hiền gần gũi bạn ác.

7. Là hạng người luôn tật bệnh thân thể yếu đuối.

8. Là hạng người bị các khổ bức bách.

Tám hạng người như vậy xa lìa bồ đề không nên nói pháp cho họ.

Lúc ấy, Hộ Quốc lại bạch Phật: Không nên nói pháp còn nghĩa gì chăng?

Phật bảo Hộ Quốc:

Nếu có người không quyết định thì ta không nói bồ đề.

Với người hư vọng ta không nói hạnh thanh tịnh.

Với người biếng nhác ta không nói hạnh Bồ Tát.

Với người keo kiệt ta không nói hạnh cúng Phật.

Với người ngã mạn ta không nói Ba la mật thanh tịnh.

Với người vô trí ta không nói pháp đoạn nghi.

Với người ganh tỵ ta không nói tâm thanh tịnh.

Với người không lòng tin ta không nói pháp tổng trì.

Với người không có đức ta không nói pháp Thiện Thệ.

Với người tham ái ta không nói thân thanh tịnh.

Với người không rành luật nghi ta không nói pháp hủy báng Phật có lỗi.

Với người nói láo ta không nói lời thanh tịnh.

Với người ngã mạn ta không nói pháp cung kính.

Với người không hiểu biết ta không nói pháp tu học.

Với người trọng thân mạng ta không nói pháp cầu đạo.

Những hạng người như vậy không nên nói pháp.

Khi ấy Hộ Quốc bạch: Ý đó thế nào?

Phật bảo Hộ Quốc: Vì hữu tình này ngu si mê muội, tâm thức điên đảo, hư vọng phân biệt, không nương giáo pháp, thậm chí pháp Trời người cũng không nên nói cho kẻ ấy.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Các hữu tình bất định

Và các chúng sanh khác

Ngã mạn tự cống cao

Lại tham đắm lợi dưỡng

Thường làm trái luật nghi

Đắm sâu trong ngũ dục

Tăng thêm các phiền não

Xa lìa bồ đề Phật

Đối thiện pháp thối lui

Biếng nhác không tu tập

Do dự nhiều tán loạn

Lời dạy của giới pháp

Mà không sanh lòng tin

Bởi nghèo cùng bức bách

Mới tìm cách xuất gia

Dù được làm Bí Sô

Cũng khinh bỏ đạo pháp

Như vất bỏ gánh vàng

Mà chọn lấy gánh gai

Tuy muốn vào núi sâu

Đến ở nơi vắng lặng

Ý không thích tu thiền

Nghĩ tà thêm tán loạn

Chướng ngại các biện tài

Trí tuệ lớn chìm mất

Rơi vào trong nẻo ác

Dù có được thân người

Xấu xí không toàn vẹn

Tánh biếng nhác ngu si

Không hành các pháp thiện

Các căn thường ám độn

Rơi vào hiểm nạn lớn

Trải qua vô số kiếp

Chìm đắm không giải thoát

Nếu hành tà có lợi

Là chứng được Phật Quả

Điều đạt không chánh tri

Đáng lẽ thành Thiện Thệ

Nếu người tham lợi dưỡng

Rơi vào trong chúng sanh

Như cuồng phong trên không

Làm rơi các loài chim

Phước tà khi đã hết

Nghĩa ấy cũng như vậy

Người không tin, phá giới

Thấy thiện như người mù

Ví như thiêu thây chết

Không lành người ghét bỏ

Tuy đã phát thiện tâm

Không có trí rộng lớn

Chê pháp bởi không tin

Giải thoát chẳng rốt ráo

Như vẽ tranh không keo

Màu sắc tranh không bền

Ngã mạn tự cống cao

Nghĩa ấy, cũng như vậy

Nếu cầu bồ đề Phật

Thì không tiếc thân mạng

Với lời pháp sâu xa

Dõng mãnh siêng tu học

Bỏ thiện hành phi pháp

Hành động ấy thêm tội

Rơi vào hầm lửa lớn

Ai nghe pháp như vậy

Nương pháp để hành trì

Đoạn trừ tâm tham ái

Tu trồng cội công đức

Thậm chí đối một câu

Thông suốt hiểu trọn vẹn

Tích công đức như vậy

Thành tựu đạo tối thượng

Mãi mãi lìa ngu tối.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rồi bảo Tôn Giả Hộ Quốc: Ta ở vô lượng vô biên không thể nói, không thể nói A tăng kỳ kiếp trong quá khứ. Lúc ấy, có Phật ra đời hiệu là Thành Nghĩa Ý Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Bấy giờ, có Vua nước lớn tên là Phát Quang, chủ Diêm Phù Đề, đất đai rộng lớn một vạn sáu ngàn do tuần, trong đó có hai mươi vạn châu thành. Thành ấp Vua Phát Quang ở tên là Bảo Quang.

Thành ấy đông tây dài mười hai do tuần, nam bắc rộng bảy do tuần, có bảy lớp thành bằng bảy báu. Vua ấy khéo thực hành tám chánh đạo có một ngàn ức dòng họ giàu mạnh, nhân dân nước ấy thọ mười ức tuổi. Vua có Thái Tử tên là Phước Quang, các căn đầy đủ, dung mạo đoan nghiêm, đẹp đẽ đệ nhất.

Khi Thái Tử sanh có một ngàn kho báu từ đất nổi lên, trong đó có một kho báu hiện trước điện Vua, bên trong đầy bảy báu, cao bằng bảy người, lại khiến cho việc làm của tất cả chúng sanh được như ý cho đến người bị giam cầm đều được phóng thích.

Thái Tử ấy sanh được bảy ngày thì thông thạo tất cả kỹ nghệ, công xảo, toán thuật, thậm chí tất cả nghề nghiệp, sự việc thế gian và xuất thế gian, không việc gì không thông suốt.

Vào nửa đêm có Thiên Tử Tịnh Quang đến thuyết pháp, bảo với Thái Tử: Phước Quang hãy lắng nghe! Ông phải dừng tâm không nên tán loạn, thường phải xa lìa các trần cảnh, ngày đêm tư duy pháp hữu vi, thường quán vô thường, khi tuổi thọ hết ai người cứu ta, đối với phi pháp nên sanh sợ hãi.

Bấy giờ, Thiên Tử Tịnh Quang nói kệ:

Thái Tử ngươi nên biết

Đừng đắm trước say mê

Ở nơi hiểm nạn này

Siêng năng cầu ra khỏi

Như lời Đức Phật dạy

Nếu ai lìa say mê

Người ấy đại dõng mãnh

Khéo thực hành luật nghi

Thanh tịnh không tỳ vết

Thấy các loài chúng sanh

Tâm sanh hạnh từ mẫn

Không lâu sẽ thành Phật

Tất cả Phật quá khứ

Hiện tại và vị lai

Đều sanh từ các thiện

Xa lìa tham sân si

Ăn uống và y phục

Vàng bạc Ma Ni báu

Các thứ đồ trang nghiêm

Bố thí lợi chúng sanh

Trải qua nhiều ức kiếp

Một lòng cầu bồ đề

Chưa từng sanh mệt mỏi

Hoặc xả bỏ thân phần

Đầu mắt và tay chân

Đối với người cầu xin

Tâm hết sức vui mừng

Do tích công đức này

Mà thành bồ đề Phật

Dù ở ngôi Quốc Vương

Được giàu sang tột bc

Mỹ nữ và quyến thuộc

Ngày đêm thường vây quanh

Cung Điện và Quốc Thành

Thảy đều như huyễn hóa

Như đồ gốm chưa nung

Sóng nắng, bong bóng nước

Thể chúng không bền chắc

Chẳng thật chẳng dài lâu

Như vậy pháp vô thường

Hư vọng ông nên biết!

Cha mẹ và vợ con

Ai có thể cứu giúp

Tạo tác nghiệp thiện ác

Người ấy theo nghiệp dẫn

Như vậy vô số kiếp

Thường chìm biển sanh tử

Cũng như người không mắt

Đắm cảnh mà không biết

Luống uổng chịu khổ nhọc

Cuối cùng đọa nẻo ác

Đường bồ đề tối thượng

Hành dõng mãnh tinh tấn

Cho đến lúc mạng chung

Không sanh ba đường ác

Người đời khó gặp Phật

Khó được nghe chánh pháp

Hàng phục phiền não oán

Gần gũi với bạn lành

Thường tu bát chánh đạo

An trú tâm bồ đề

Bất thối nơi Phật Đạo

Phương tiện hành như vậy

Thế gian không người hơn

Tất cả Phật quá khứ

Xa lìa sự mến thương

Thường ở chốn núi sâu

Chánh niệm tự tư duy

Vững chắc như Kim Cang

Chí cầu đạo vô thượng.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tôn Giả Hộ Quốc: Thiên Tử Tịnh Quang nói kệ rồi, Thái Tử Phước Quang kia năm lên mười tuổi, trí tuệ thông đạt nhưng không hý luận không đắm trước vườn, rừng, hoa cỏ, suối chảy, ao tắm, ca múa, kỹ nhạc thế gian, cho đến quốc thành, cung điện, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, của báu…

Tất cả việc ham muốn thảy đều xa lìa, nhất tâm tư duy: Thân ta hư huyễn bốn đại giả hợp, không có bền chắc, đại địa Chư Thiên đều chẳng chân thật, chúng sanh phàm phu thường hành phi pháp, ngu si mê muội, phân biệt thân sơ, đam mê dục lạc không biết nhàm chán, mãi ở luân hồi không ngày giải thoát.

Ta lại thọ sanh giữa hạng người ngu mê như vậy. Nghĩ như thế rồi, Thái Tử khởi chí buộc tâm chuyên cầu giải thoát.

Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Tôn Giả Hộ Quốc: Vua Phát Quang ấy chọn vùng đất có địa thế tốt đẹp hạng nhất, xây dựng một thành tên là Ái Lạc cho Thái Tử. Thành ấy bảy lớp, bên trong có bảy trăm đường giao thông, võng lưới chân châu chuông linh toàn bằng bảy báu, lưới báu chân châu giăng khắp bên trên.

Lại có sáu mươi loại bảo cái tuyệt đẹp và tám vạn tràng phan quí báu, tuần tự bố trí thẳng tắp ở các nẻo đường, mỗi mỗi tràng phan báu có sáu vạn dây báu, mỗi một dây báu có mười bốn ức nhạc cụ, nhạc cụ như thế gió thổi làm lay động phát ra âm thanh vi diệu như trăm ngàn nhạc Trời.

Ở ngã tư của các nẻo đường trong thành này đều có năm trăm đồng nữ thân tướng đoan nghiêm dung mạo tươi vui. Tất cả đều có tài năng về âm nhạc, ca múa, xướng hát.

Khi ấy Vua Phát Quang ra lệnh cho các đồng nữ ngày đêm tấu nhạc không gián đoạn. Tất cả dân chúng khắp bốn phương đều đến và vào thành này, họ nghe âm nhạc ấy và thấy sự vui nhộn nên vội vã đến xem, làm cho Thái Tử sanh tâm mê đắm.

Vua lại bảo: Có chúng sanh nào cầu ăn uống thì cho ăn uống. Cầu y phục thì cho y phục. Cầu vòng hoa hương xoa thì cho vòng hoa hương xoa. Cầu giường nằm ngọa cụ thì cho giường nằm ngọa cụ thậm chí đem vàng bạc, Ma Ni, xa cừ, mã não, san hô, chân châu, phệ lưu ly…

Các của báu ấy chồng chất khắp nơi. Lại đem voi ngựa xe cộ, dùng các vật báu để trang nghiêm rồi, ban cho tất cả chúng sanh tùy ý sử dụng.

Khi ấy Vua Phát Quang kiến tạo một Cung Điện rộng một do tuần ở trong thành này cho Thái Tử, cất lầu có bốn cửa lớn, cửa sổ và lan can đều dùng bảy báu để trang nghiêm, bên trong cung này lập một đại điện dùng trăm ngàn trân bảo trang trí xung quanh, ở giữa điện đặt bốn ức loại giường và ngọa cụ báu, ở trong thành lại bố trí một khu vườn lớn, số lượng hoa quả cây trái rất nhiều, sum xuê, nở rộ ở đời hiếm thấy.

Ở giữa khu vườn trồng nhiều cây báu ánh sáng rực rỡ rất đáng ưa thích. Trong vườn còn có ao bằng bảy báu, bốn mặt ao có bốn con đường được làm bằng bốn thứ báu đó là vàng, bạc, phệ lưu ly và pha lê.

Ở quanh ao đặt một trăm lẻ tám con Sư Tử hút nước vào miệng và một trăm lẻ tám con Sư Tử khác phun nước ra, trong ao lại có các loại hoa sen hồng, xanh, vàng, trắng, cùng với những loại hoa thơm khác luôn luôn nở rộ xung quanh hồ.

Còn có tám trăm cây báu, trên mỗi cây báu đều treo dây lụa báu trắng, trên mỗi dây báu có hàng ức nhạc cụ, gió thổi lay động phát ra âm thanh vi diệu, khiến chúng sanh nghe được đều ưa thích. Trên cây báu còn treo tám trăm vạn trân bảo và tràng phan đẹp. Lại ở trên ao giăng lưới báu lớn để che thân Thái Tử khỏi bị dính bụi.

Bấy giờ, Vua Phát Quang lại ra lệnh dùng bảy báu làm bốn ức tòa báu đặt trong Cung Điện, mỗi tòa báu đều dùng năm trăm y tốt đẹp hạng nhất trải lên trên.

chính giữa đặt một tòa lớn, cao bằng bảy người, đem tám mươi ức y báu hạng tốt nhất trải lên trên, đó là tòa ngồi của Thái Tử Phước Quang, phía trước các tòa đều đặt lư hương làm bằng vàng, xung quanh lư hương treo chuông linh và hoa sen bằng vàng, bốn mặt trang trí bằng lưới báu Ma Ni ánh sáng rực rỡ, ngày đêm ba thời luôn đốt trầm hương và rãi hoa đẹp.

Ở trong vườn lại có chín mươi chín trăm ngàn Ma Ni báu, mỗi một Ma Ni báu rộng một do tuần có vừng ánh sáng lớn chiếu soi tất cả Thế Giới.

Khi ấy, Thế Tôn lại bảo Hộ Quốc: Trong vườn của Thái Tử Phước Quang có các loài chim như: Anh Võ, Bồ Câu, Uyên Ương, Nga Giáp Hồng Nhạn, Khổng Tước, Xá Lợi, Câu Chỉ La, Câu Noa La, Ca Lăng Tần Già, Mạng Mạng.

Các loài chim như vậy đều khéo nói tiếng người, mỗi khi chúng bay phát ra âm thanh vi diệu, y như các tiếng nhạc không khác, cũng như vườn hoan hỷ của Thiên Đế Thích, làm cho Chư Thiên cảm nhận sự khoái lạc vi diệu. Vua Phát Quang lại sửa soạn thức ăn ngon nhất cho Thái Tử, mỗi ngày cung cấp năm trăm ngàn xe.

Còn ra lệnh cho các thành ấp xóm làng tuyển chọn đồng nữ từ mười sáu đến hai mươi tuổi, tướng mạo đoan nghiêm các căn đầy đủ, không cao không thấp, không mập không ốm, không đen không trắng, thân tỏa ra hương bạch đàn, miệng thoảng mùi thơm hoa ưa bát la, nói năng nhỏ nhẹ.

Tánh tình thuần hậu, không ghen ghét, khéo hiểu biết rộng về ca múa, hài hước, cho đến tất cả việc thế gian như: Công xảo kỹ nghệ không việc gì không hiểu rõ, có đến tám mươi ức đồng nữ như vậy vào vương thành. Bấy giờ, Vua Phát Quang đem tám mươi ức đồng nữ này ban cho Thái Tử, lại ban cho một ức đồng nữ trong cung của mình.

Các thân quyến của Vua cũng đem một ức đồng nữ dâng lên Thái Tử. Tể Tướng và trọng thần cũng đem một ức đồng nữ dâng lên Thái Tử. Nhân dân trong nước cũng đem một ức đồng nữ dâng lên Thái Tử. Như vậy có đến tám mươi bốn ức đồng nữ theo hầu hạ phụng sự và ca múa, diễn trò hài hước cho Thái Tử vui.

Phật bảo Tôn Giả Hộ Quốc: Khi ấy, Thái Tử Phước Quang thấy các hiện tượng nào là: Quốc thành Cung Điện, lầu gác, vườn rừng, ao rạch, voi, ngựa, trân bảo, và các đồng nữ ca múa xướng hát, biểu hiện các việc vui như vậy, nhưng đều không đắm trước, mà tự tư duy:

Các người nữ này đối với thân ta là bạn đại ác, làm tăng trưởng phiền não và đoạn thiện căn của ta, làm ta thường ở luân hồi không được tự tại, ví như kẻ bị giam cầm không thể ra khỏi.

Bấy giờ, Thái Tử thấy được tội lỗi này, nên trong mười năm đối với các cảnh giới năm trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc không đắm trước, nhất tâm tư duy: Làm sao xa lìa các bạn ác để tu hành, được giải thoát?

Các đồng nữ kia liền đến cung Vua tâu với Vua Cha: Thái Tử Phước Quang đối với sự vui đùa ca múa của các thể nữ đều chẳng màng đến, chỉ ngồi tư duy xa lìa thanh sắc.

Khi ấy, Vua Phát Quang nghe việc này rồi, tâm hết sức kinh ngạc, cho là chưa từng có, liền thống lãnh tám vạn tiểu vương và quần thần đến Cung Điện Thái Tử, thấy Thái Tử một mình ở trong Cung Điện nét mặt tĩnh lặng, Vua buồn rơi lệ, tâm rất đau khổ, té ngã xuống đất mê man hồi lâu mới tỉnh, liền đứng dậy nói kệ:

Con là báu tối thượng

Tại sao không nhìn cha

Buồn rầu tâm hoảng loạn

Sao bỏ việc đáng yêu

Sự giàu sang vui vẻ

Thành này đẹp trang nghiêm

Trang hoàng bằng các báu

Cung điện lầu gác đẹp

Vườn rừng và ao tắm

Voi ngựa bảy món báu

Y phục và ăn uống

Như vậy số vô lượng

Dùng cung cấp cho con

Lại có các đồng nữ

Nhan sắc thật tuyệt đẹp

Đoan chánh khắp trang nghiêm

Như tướng của Thiên Nữ

Tâm tánh hiền thuận hậu

Biết rành các kỹ nghệ

Ca múa và âm nhạc

Thế gian không người sánh

Để làm con vui thích

Khiến con được hạnh phúc

Tại sao con không thích

Mà lìa bỏ cảnh ấy

Một mình ở thâm cung

Dung mạo rất tầm tĩnh

Làm cho các đồng nữ

Tất cả đều ưu sầu

Như hoa sen héo úa

Đều đến thưa với ta

Thái Tử! Con nên biết,

Các đồng nữ như vậy

Đoan chánh tuổi thanh xuân

Miệng thoảng hương ưu bát

Thân tỏa hương Chiên Đàn

Mắt xanh như sen biếc

Thông hiểu tâm ý người

Trong suốt ngày và đêm

Gần gũi làm trò vui

Hôm nay, ngay bây giờ

Con lìa bỏ tất cả

Trong lòng con nghĩ gì?

Hãy nói cho cha biết!

Lại trong vườn còn có

An trí báu Ma Ni

Chín mươi chín trăm ngàn

Đều rộng một do tuần

Chiếu ánh sáng rực rỡ

Cây báu treo phan báu

Số lượng đến tám vạn

Hoa quả đều sum xuê

Có đủ các loài chim

Khổng Tước và Nga Giáp Hồng Nhạn

Chim Ca Lăng Tần Già

Đều hót tiếng vi diệu

Khoảng giữa các hàng cây

Đều rủ xuống dây báu

Ở trong mỗi dây báu

Đều có nhạc khí đẹp

Gió thổi làm lay động

Phát ra tiếng rất hay

Tiếng hay như nhạc Trời

Sao con chẳng ưa thích

Còn các cung điện này

Dùng các báu làm thành

Vàng bạc châu Ma Ni

Xa cừ cùng mã não

Ma Ni và trân châu

Trang nghiêm rất đẹp đẽ

Trong cung điện báu này

An trí lư hương vàng

Lưới châu rủ bốn mặt

Hàng ức vải mịn đẹp

Dùng trang nghiêm ở trên

Ngày đêm trong ba thời

Luôn xông hương Chiên Đàn

Như Cung Điện Đế Thích

Không khác nhà thiện pháp

Nay con chẳng ưa thích

Trái với ý cha mẹ

Không có tâm hiếu kính

Làm cha thêm khổ não

Mau nói cho cha biết!

Nói rồi rơi nước mắt.

Thái Tử nghe cha hỏi

Đảnh lễ thưa Vua Cha:

Cảnh ngũ dục thế gian

Làm chúng sanh đọa lạc

Trói buộc các hữu tình

Thêm lớn các tội lỗi

Mãi ở trong luân hồi

Không có ngày ra khỏi

Nay con cầu giải thoát

Phát tâm đại bồ đề

Xa lìa các trần nhiễm

Tất cả thân người nữ

Xấu xa gốc bất tịnh

Con quán như oan gia

Tham sân theo bức ép

Trôi nổi trong tử sanh

Trói dắt các chúng sanh

Thường ở đường hiểm lớn

Tướng đẹp người nữ này

Lớp da bọc bất tịnh

Máu thịt cùng xương tủy

Ruột dạ dày tiểu tiện

Nước mắt, mũi nước miếng

Thân dơ nhớp như vậy

Làm sao ưa thích được

Ví như cây thuốc độc

Nở hoa nhiều người mến

Hái hoa độc chạm thân

Đâu biết tự hại mình

Nước thành và cung điện

Âm nhạc và ca múa

Rốt cuộc không chân thật

Như mộng như huyễn hóa

Như cây cối mùa xuân

Sum xuê khoe hương sắc

Khi Trời chuyển sang đông

Lá rụng trơ thân gầy

Mỹ nhân và giàu sang

Không lâu cũng như vậy

Ngu si tâm cuồng loạn

Đắm chìm biển tham dục

Đấu tranh sanh ganh ghét

Chém giết hại lẫn nhau

Phụ Vương và quyến thuộc

Vợ con và nam nữ

Ở trong nẻo ác ấy

Ai có thể cứu giúp

Bồ Tát bậc đại trí

Thân tâm thường tịch tịnh

Quán họ như cỏ cây

Không động như Tu Di

Thường ưa chốn núi sâu

Một lòng cầu chánh đạo

Kiếp phù du chóng hết

Như nước dốc chảy xiết

Mạng người như mây nổi

Phút chốc liền tan hoại

Rơi vào trong ba cõi

Mê đắm trong sanh tử

Con không bị đắm say

Xa lìa những hư vọng

Sắc thinh năm dục trần

Chẳng phải cảnh Bồ Tát

Phước hết vô phước sanh

Nghiệp hết lại sanh nghiệp

Như chim nhốt trong lồng

Mãi không được tự tại

Sáu trần như rắn độc

Gây tổn hại chúng sanh

Bốn đại không chắc thật

Giống như xóm làng vắng

Nay Phụ Vương nên biết

Sớm bỏ cảnh hư vọng

Quay về chân giải thoát

Thường dùng thuyền diệu pháp

Để độ thoát ba cõi

Giúp người mê tỉnh ngộ

Mở trói kẻ buộc ràng

Khổ nạn làm cho an

Cứu người mù sáng mắt

Cho trân bảo người nghèo

Đều khiến lìa khổ não

Lại vì chúng hữu tình

Làm cạn sông tham ái

Chiếu sáng đường tối tăm

Rộng bủa mây sấm chớp

Tuôn mưa nước cam lồ

Trừ nóng được mát mẻ

Thành tựu trí tối thượng

Nay Phụ Vương nên biết!

Người nào sẵn lòng từ

Mà muốn làm oan gia?

Người nào đủ trí tuệ

Sợ gặp Phật Pháp Tăng?

Người nào có mắt sáng

Mà đi vào đường hiểm?

Người nào được bồ đề

Mà dục làm tán loạn?

Người có trí như thế

Quyết không hành tà đạo

Thà lên đỉnh Tu Di

Gieo thân vào biển lớn

Đối với năm dục trần

Quyết không sanh nhiễm trước

Các thể nữ hiện có

Cùng với các quyến thuộc

Xin cha dẫn về gấp

Chớ ở lâu nơi đây

Tại gia nhiều tội lỗi

Chướng ngại bồ đề Phật

Con xả bỏ quốc thành

Và tất cả quyến thuộc

Đi vào chốn núi sâu

Tu tập hạnh thanh tịnh

Chí cầu đạo vô thượng.

***