Kinh Nguyên thủy

Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Ba - Phẩm Căn Bổn Phân Biệt

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI BA

PHẨM CĂN BỔN PHÂN BIỆT
 

KINH ÔN TUYỀN LÂM THIÊN
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương Xá, trong rừng Trúc, vườn Ca Lan Đa. Bấy giờ, Tôn Giả Tam Di Đề cũng đi du hóa ở thành Vương Xá, tại Ôn Tuyền Tâm.

Bấy giờ, đêm gần tàn, Trời sắp sáng, Tôn Giả Tam Di Đề từ phòng bước ra, đi đến Ôn Tuyền, cởi y để trên bờ rồi xuống hồ Ôn Tuyền tắm. Sau khi tắm xong, Tôn Giả lên bờ lấy khăn lau mình và mặc y vào.

Bấy giờ có một vị Thiên Thần thân hình rất đẹp, sắc tướng uy nghi, nhắm lúc Trời sắp rạng đông, đi đến Tôn Giả Tam Di Đề, cúi đầu đảnh lễ Tôn Giả Tam Di Đề rồi đứng qua một bên. Vị Thiên Thần đó với sắc tướng uy thần cực diệu làm sáng chói khắp cả bờ hồ Ôn Tuyền.

Sau khi đứng qua một bên, Thiên Thần bạch với Tôn Giả Tam Di Đề rằng: Này Tỳ Kheo, thầy có thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế chăng?

Tôn Giả Tam Di Đề trả lời vị Thiên Thần kia rằng: Tôi không thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế.

Rôi Tôn Giả hỏi lại Thiên Thần: Nhưng Ngài có thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế chăng?

Thiên Thần trả lời: Tôi cũng không thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế.

Tôn Giả Tam Di Đề lại hỏi vị Thiên Thần kia: Ai thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế?

Thiên Thần kia đáp: Đức Thế Tôn đang du hóa trong thành Vương Xá này, tại Trúc Lâm, vườn Ca Lan Đa. Chính Ngài thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế. Này Tỳ Kheo, thầy nên gặp Thế Tôn và từ Ngài mà ghi nhớ và thuộc kỹ, thọ trì bài kệ Bạt Địa La Đế.

Vì sao vậy?

Vì bài kệ Bạt Địa La Đế đó có pháp có nghĩa, là căn bản của phạm hạnh, hướng đến trí tuệ, hướng đến giác ngộ và hướng đến Niết Bàn. Một thiện nam tử chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo, cần phải khéo thọ trì đọc tụng bài kệ Bạt Địa La Đế này.

Thiên Thần kia nói như vậy, và sau khi cúi đầu đảnh lễ dưới chân của Tôn Giả Tam Di Đề, nhiễu quanh Tôn Giả ba vòng rồi biến mất khỏi chỗ đó.

Sau khi Thiên Thần biến mất không lâu, Tôn Giả Tam Di Đề đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên mà bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay khi Trời sắp rạng đông, con ra khỏi phòng, đi đến Ôn Tuyền, cởi y để trên bờ rồi xuống hồ Ôn Tuyền tắm. Sau khi tắm xong, lên bờ lấy khăn lau mình và mặc y vào.

Bấy giờ có một vị Thiên Thần thân hình rất đẹp, sắc tướng uy nghi, nhắm lúc Trời sắp rạng đông, đi đến con, cúi đầu đảnh lễ con rồi đứng qua một bên. Vị Thiên Thần đó với sắc tướng uy thần cực diệu làm sáng chói khắp cả bờ hồ Ôn Tuyền.

Sau khi đứng qua một bên, Thiên Thần bạch với con: Này Tỳ Kheo, thầy có thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế chăng?

Con trả lời vị Thiên Thần kia rằng: Tôi không thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế.

Rồi con hỏi lại Thiên Thần: Nhưng Ngài có thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế chăng?

Thiên Thần trả lời: Tôi cũng không thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế.

Con lại hỏi vị Thiên Thần kia: Ai thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế?

Thiên Thần kia đáp: Đức Thế Tôn đang du hóa trong thành Vương Xá này, tại Trúc Lâm, vườn Ca Lan Đa. Chính Ngài thuộc bài kệ Bạt Địa La Đế.

Này Tỳ Kheo, thầy nên gặp Thế Tôn và từ Ngài mà ghi nhớ và thuộc kỹ, thọ trì bài kệ Bạt Địa La Đế.

Vì sao vậy?

Vì bài kệ Bạt Địa La Đế đó có pháp có nghĩa, là căn bản của phạm hạnh, hướng đến trí tuệ, hướng đến giác ngộ và hướng đến Niết Bàn. Một thiện nam tử chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo, cần phải khéo thọ trì đọc tụng bài kệ Bạt Địa La Đế này.

Thiên Thần kia nói như vậy, và sau khi cúi đầu đảnh lễ dưới chân con, nhiễu quanh Tôn Giả ba vòng rồi biến mất khỏi chỗ đó.

Đức Thế Tôn hỏi rằng: Này Tam Di Đề, ngươi có biết vị Thiên Thần kia từ đâu đến chăng?

Vị Thiên Thần kia tên là gì chăng?

Tôn Giả Tam Di Đề đáp rằng: Bạch Thế Tôn, con không biết vị Thiên Thần kia từ đâu đến, cũng không biết tên gì.

Đức Thế Tôn bảo: Này Tam Di Đề, vị Thiên Thần kia tên là Chánh Điện, làm tướng quân ở Cõi Trời Tam Thập Tam Thiên.

Khi ấy, Tôn Giả Tam Di Đề bạch rằng: Bạch Thế Tôn, nay thật là đúng lúc! Bạch Thiện Thệ, nay thật là đúng lúc!

Nếu Thế Tôn nói cho Tỳ Kheo bài kệ Bạt Địa La Đế ấy, các Tỳ Kheo sau khi nghe Thế Tôn nói, sẽ ghi nhớ kỹ.

Đức Thế Tôn bảo: Này Tam Di Đề, hãy nghe kỹ và suy nghĩ kỹ. Ta sẽ nói cho ông nghe.

Tôn Giả Tam Di Đề bạch: Xin vâng, bạch Thế Tôn!

Bấy giờ, các Tỳ Kheo vâng lời chỉ giáo mà lắng nghe.

Đức Thế Tôn đọc bài tụng:

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ

Tương lai cũng chớ mong cầu

Quá khứ đã qua, đã mất,

Tương lai chưa đến, còn xa

Hiện tại những gì đang có

Thì nên quán sát suy tư

Niệm niệm mong manh không chắc,

Người khôn biết vậy nên tu

Nếu có làm theo hạnh Thánh,

Ai hay nỗi chết ưu sầu

Nhất định tránh xa sự chết

Hiểm nguy, khổ lớn dứt trừ

Như vậy thực hành tinh tấn,

Ngày đêm không chút biếng lười

Vì vậy phải thường tụng đọc

Bạt Địa La Đế kệ này.

Sau khi nói bài kệ như vậy, Đức Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh thất mà tĩnh tọa.

Lúc bấy giờ, các Tỳ Kheo liền nghĩ rằng: Này Chư Hiền, nên biết, Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt lời dạy này, không phân biệt rộng rãi, rồi Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh thất nhập định.

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ,

Tương lai cũng chớ mong cầu,

Quá khứ đã qua, đã mất,

Tương lai chưa đến, còn xa

Hiện tại những gì đang có

Thì nên quán sát suy tư

Niệm niệm mong manh không chắc,

Người khôn biết vậy nên tu

Nếu có làm theo hạnh Thánh,

Ai hay nỗi chết ưu sầu

Nhất định tránh xa sự chết

Hiểm nguy, khổ lớn dứt trừ

Như vậy thực hành tinh tấn,

Ngày đêm không chút biếng lười

Vì vậy phải thường tụng đọc

Bạt Địa La Đế kệ này.

Các vị ấy lại nghĩ rằng: Chư Hiền, vị nào có thể phân biệt rộng rãi điều mà Thế Tôn đã nói một cách tóm lược?

Các vị ấy lại nghĩ: Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên thường được Thế Tôn và các bậc phạm hạnh có trí tán thán. Như vậy, Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên có thể phân biệt được điều mà Thế Tôn đã nói một cách tóm lược.

Này Chư Hiền, hãy cùng nhau đi đến nơi Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên, nhờ Tôn Giả giải thích điều đó. Nếu Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên phân biệt cho, chúng ta sẽ khéo thọ trì.

Thế rồi các Tỳ Kheo cùng nhau đi đến chỗ Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên, cùng chào hỏi nhau rồi ngồi qua một bên thưa rằng: Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên, nên biết, Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt lời dạy này, không phân biệt rộng rãi, rồi Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh Thất nhập định.

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ

Tương lai cũng chớ mong cầu

Quá khứ đã qua, đã mất,

Tương lai chưa đến, còn xa

Hiện tại những gì đang có

Thì nên quán sát suy tư

Niệm niệm mong manh không chắc,

Người khôn biết vậy nên tu

Nếu có làm theo hạnh Thánh,

Ai hay nỗi chết ưu sầu

Nhất định tránh xa sự chết

Hiểm nguy, khổ lớn dứt trừ

Như vậy thực hành tinh tấn,

Ngày đêm không chút biếng lười

Vì vậy phải thường tụng đọc

Bạt Địa La Đế kệ này.

Chúng tôi suy nghĩ rằng: Chư Hiền, vị nào có thể phân biệt rộng rãi điều mà Thế Tôn đã nói một cách tóm lược?

Chúng tôi lại nghĩ: Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên thường được Thế Tôn và các bậc phạm hạnh có trí tán thán. Như vậy, Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên có thể phân biệt được điều mà Thế Tôn đã nói một cách tóm lược. Cúi xin Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên vì lòng từ mẫn mà nói nghĩa ấy một cách rộng rãi.

Bấy giờ, Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên nói rằng: Này Chư Hiền, hãy nghe tôi nói thí dụ. Người có trí nghe thí dụ thì sẽ hiểu được nghĩa.

Này Chư Hiền, cũng như người muốn tìm lõi cây. Vì muốn tìm lõi cây nên xách búa vào rừng.

Người ấy thấy cây đại thọ có đủ gốc, thân, cành, nhánh, lá, hoa và lõi. Người ấy không đốn gốc, thân, cành và lõi mà chỉ chặt nhánh và lá thôi. Điều Chư Hiền nói ra cũng lại như vậy. Đức Thế Tôn còn đó mà Chư Hiền lại bỏ đi tìm tôi để hỏi về điều ấy.

Vì sao?

Chư Hiền nên biết, Thế Tôn là con mắt, là trí, là nghĩa, là pháp chủ, là pháp tướng nói nghĩa Chân Đế, hiển hiện tất cả các nghĩa, đều do Thế Tôn.

Này Chư Hiền, hãy đến chỗ Đức Thế Tôn mà hỏi điều đó như thế này, Bạch Thế Tôn, điều đó thế nào?

Điều đó có nghĩa gì?

Đức Thế Tôn dạy thế nào, Chư Hiền nên khéo léo thọ trì thế ấy.

Nghe thế, các Tỳ Kheo thưa rằng: Xin vâng, thưa Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên, Đức Thế Tôn là con mắt, là trí, là nghĩa, là pháp chủ, là pháp tướng. Nói nghĩa Chân Đế, hiển hiện tất cả các nghĩa, đều do Thế Tôn. Chúng tôi đáng lẽ phải đến chỗ Thế Tôn mà hỏi về điều đó như vậy.

Bạch Thế Tôn, điều đó thế nào?

Điều đó có nghĩa gì?

Đức Thế Tôn nói như thế nào, chúng tôi sẽ khéo thọ trì thế ấy. Nhưng Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên thường được Thế Tôn và các bậc phạm hạnh có tri tán thán. Như vậy, Tôn Giả có thể phân biệt được điều mà Thế Tôn đã nói một cách tóm lược. Mong Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên thương xót mà giải thích rộng rãi cho.

Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên bảo các Tỳ Kheo rằng: Này Chư Hiền, nếu vậy xin hãy nghe tôi nói.

Này Chư Hiền, thế nào là Tỳ Kheo truy niệm quá khứ?

Này Chư Hiền, Tỳ Kheo quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc ái, tâm lạc tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc. Gốc tức quá khứ vậy. Thức quá khứ vị ấy bị nhiễm trước dục. Do thức nhiễm trước dục, vị ấy hoan lạc. Do hoan lạc, vị ấy truy niệm quá khứ. Tai, mũi, lưỡi và thân cũng vậy.

Quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc ái, tâm lạc tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc. Gốc tức quá khứ vậy. Thức quá khứ vị ấy bị nhiễm trước dục. Do thức nhiễm trước dục, vị ấy hoan lạc. Do hoan lạc, vị ấy truy niệm quá khứ.

Này Chư Hiền, sao gọi là Tỳ Kheo không truy niệm quá khứ?

Này Chư Hiền, Tỳ Kheo quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc ái, tâm lạc tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc. Gốc tức quá khứ vậy. Thức quá khứ vị ấy không bị nhiễm trước dục. Do thức không bị nhiễm trước dục, nên không hoan lạc nơi đó.

Do không hoan lạc nơi đó nên không truy niệm quá khứ. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy, quả thật có sắc được biết bởi mắt, khả hỷ, ý niệm, sắc ái, tâm lạc tương ưng với dục, tâm mò bắt cái gốc. Gốc tức quá khứ vậy.

Thức quá khứ vị ấy không bị nhiễm trước dục. Do thức không nhiễm trước dục, vị ấy không hoan lạc. Do không hoan lạc, vị ấy không truy niệm quá khứ.

Này Chư Hiền, như vậy đó là Tỳ Kheo không truy niệm quá khứ.

Này Chư Hiền, sao gọi là Tỳ Kheo mong ước vị lai?

Này Chư Hiền, nếu Tỳ Kheo có mắt, sắc và thức con mắt, đối với vị lai những gì chưa được thì muốn được, đã được rồi thì tâm mong ước. Do tâm mong ước nên hoan lạc nơi đó. Do hoan lạc nên mong ước vị lai.

Tai, mắt, nũi, lưỡi, thân cũng như vậy. Đối với vị lai, những gì chưa được thì muốn được. Đã được thì tâm mong ước. Do tâm mong ước nên tâm hoan lạc nơi đó. Do hoan lạc nên mong ước vị lai.

Này Chư Hiền, như vậy đó là Tỳ Kheo mong ước vị lai.

Này Chư Hiền, sao gọi là Tỳ Kheo không mong ước vị lai?

Này Chư Hiền, nếu Tỳ Kheo có mắt, sắc và thức con mắt, đối với vị lai những gì chưa được thì không muốn được, đã được rồi thì tâm không mong ước. Do tâm không mong ước nên không hoan lạc nơi đó. Do không hoan lạc nơi đó nên không mong ước vị lai.

Này Chư Hiền, như vậy đó gọi là Tỳ Kheo mong ước vị lai.

Này Chư Hiền, sao gọi là Tỳ Kheo chấp thủ pháp hiện tại?

Này Chư Hiền, nếu Tỳ Kheo có mắt, sắc và thức con mắt, đối với hiện tại, vị ấy thức hiện tại bị nhiễm trước dục. Do thức bị nhiễm trước dục nên hoan lạc nơi ấy. Do hoan lạc nên chấp thủ pháp hiện tại. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy, nếu có ý, pháp và ý thức, đối với hiện tại, vị ấy thức hiện tại bị nhiễm trước dục. Do bị nhiễm trước dục nên hoan lạc nơi ấy. Do hoan lạc nên chấp thủ pháp hiện tại.

Này Chư Hiền, như vậy đó là Tỳ Kheo chấp thủ pháp hiện tại.

Này Chư Hiền, sao gọi là Tỳ Kheo không chấp thủ pháp hiện tại?

Này Chư Hiền, nếu Tỳ Kheo có mắt, sắc và thức con mắt, đối với hiện tại, vị ấy thức hiện tại không bị nhiễm trước dục.

Do thức không bị nhiễm trước dục nên không hoan lạc nơi ấy. Do hoan lạc nên không chấp thủ pháp hiện tại. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng vậy, nếu ý, pháp và ý thức, đối với hiện tại, vị ấy thức hiện tại không bị nhiễm trước dục. Do thức không bị nhiễm trước dục nên hoan lạc nơi ấy. Do không hoan lạc nên không chấp thủ pháp hiện tại.

Này Chư Hiền, như vậy đó là Tỳ Kheo không chấp thủ pháp hiện tại.

Này Chư Hiền, phần này được Thế Tôn nói vắn tắt, không phân biệt một cách rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh Thất tĩnh tọa.

Cẩn thận, đừng nghĩ quá khứ

Tương lai cũng chớ mong cầu

Quá khứ đã qua, đã mất,

Tương lai chưa đến, còn xa

Hiện tại những gì đang có

Thì nên quán sát suy tư

Niệm niệm mong manh không chắc,

Người khôn biết vậy nên tu

Nếu có làm theo hạnh Thánh,

Ai hay nỗi chết ưu sầu

Nhất định tránh xa sự chết

Hiểm nguy, khổ lớn dứt trừ

Như vậy thực hành tinh tấn,

Ngày đêm không chút biếng lười

Vì vậy phải thường tụng đọc

Bạt Địa La Đế Kệ này.

Phần này được Thế Tôn nói vắn tắt mà không phân biệt một cách rộng rãi. Tôi bằng những câu này nói một cách rộng rãi như vậy đó.

Này Chư Hiền, có thể đến trình bày đầy đủ lên Đức Phật. Nếu Đức Thế Tôn có nói ý nghĩa như thế nào, Chư Hiền hãy thọ trì.

Bấy giờ, các Tỳ Kheo ấy nghe Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên nói như vậy, khéo thọ trì, đọc tụng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh Tôn Giả ấy ba vòng rồi đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi qua một bên mà thưa rằng: Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn nói tóm lược về điều đó mà không phân biệt rộng rãi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vào thất tĩnh tọa, thì Tôn Giả Đại Ca Chiên Diên với cú như thế, văn như thế đã giải thích rộng rãi về điều đó.

Đức Thế Tôn nghe như vậy, liền tán thán rằng: Lành thay! Lành thay! Trong số đệ tử của ta, đó là vị có mắt, có trí, có pháp, có nghĩa.

Vì sao?

Vì Đạo Sư nói điều ấy tóm lược, không phân biệt rộng rãi cho các đệ tử, mà đệ tử ấy đã bằng cú như thế, văn như thế để giải thích rộng rãi. Cho nên những gì mà Ca Chiên Diên đã nói, các ngươi hãy thọ trì như vậy.

Vì sao?

Vì thuyết quán nghĩa phải như vậy.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ Kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

***