Kinh Nguyên thủy

Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Một - Phẩm đại

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẦN MƯỜI MỘT

PHẨM ĐẠI
 

KINH BÁT NẠN
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá Vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng: Người tu phạm hạnh có tám nạn, tám phi thời.

Những gì là tám?

Vào lúc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy, thì người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào chốn địa ngục. Đó là nạn thứ nhất đối với người tu phạm hạnh.

Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo.

Những điều Thiện Thệ dạy, thì người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào loài súc sanh, vào loài ngạ quỷ, sanh vào Cõi Trời  Trường thọ, sanh ở xứ biên địa mọi rợ, không tín, vô ân, không biết báo đáp, không có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Đó là nạn thứ năm đối với người tu phạm hạnh.

Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo.

Những điều Thiện Thệ dạy, thì bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn minh nhưng lại điếc, câm, ú ớ như dê kêu, dùng tay thay lời, không thể nói nghĩa thiện ác. Đó là nạn thứ sáu, việc phi thời thứ sáu đối với người tu phạm hạnh.

Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở thế gian.

Thuyết Pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy thì bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay lời, có thể nói nghĩa thiện ác, nhưng lại có tà kiến và điên đảo kiến.

Người ấy thấy như vậy và nói như vậy, không bố thí, không trai tự, không chú thuyết, không có nghiệp thiện ác, không có nghiệp báo của thiện ác, không có đời này đời khác, không cha không mẹ, ở đời không có bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác, tự tác chứng Thế Giới  này và Thế Giới khác, thành tựu an trụ. Đó là nạn thứ bảy đối với người tu phạm hạnh.

Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu không xuất hiện ở thế gian, cũng không thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo.

Những điều Thiện Thệ dạy thì bấy giờ người ấy lại sanh nhằm chốn văn minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay lời, lại có thể nói nghĩa thiện ác và có chánh kiến, không có điên đảo kiến.

Người ấy thấy như vậy và nói như vậy, có bố thí, có trai tự, cũng có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo của thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, ở đời có bậc chân nhân, đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác.

Tự tác chứng Thế Giới này và Thế Giới khác, thành tựu an trụ. Đó là nạn thứ tám, việc phi thời thứ tám đối với người tu phạm hạnh. Người tu phạm hạnh có một điều không nạn, một việc đúng thời.

Thế nào là một điều không nạn, một việc đúng thời đối với người tu phạm hạnh?

Lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu không xuất hiện ở thế gian, cũng không thuyết pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy.

Thì bấy giờ người ấy sanh nhằm chốn văn minh, không điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay lời, lại có thể nói nghĩa thiện ác, có chánh kiến, không có điên đảo kiến.

Người ấy thấy như vậy và nói như vậy, có bố thí, có trai tự, cũng có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo của thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha, có mẹ, ở đời có bậc chân nhân, đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự tri, tự giác.

Tự tác chứng Thế Giới này và Thế Giới khác, thành tựu an trụ. Đó là điều không tai nạn, việc đúng thời đối với người tu phạm hạnh.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Nếu được làm thân người,

Pháp được thuyết vi diệu,

Mà không chứng đạo quả,

Tất không phải gặp thời

Nói nhiều nạn phạm hạnh.

Người ở vào đời sau,

Nếu như gặp phải thời,

Điều quá khó ở đời

Muốn được lại thân người,

Và nghe pháp vi diệu

Cần phải siêng năng học

Mình tự thương mình thôi

Luận bàn, nghe pháp lành.

Chớ chần chừ lỡ dịp

Nếu để mất dịp này,

Tất lo đọa địa ngục

Nếu không sanh gặp thời,

Không được nghe pháp lành

Như người buôn mất của.

Chịu sanh tử không cùng

Nếu sanh được thân người,

Được nghe pháp chánh thiện,

Vâng theo Thế Tôn dạy,

Chắc chắn sẽ gặp thời

Nếu đã gặp thời rồi,

Siêng tu chánh pháp hạnh,

Để tựu thành pháp nhãn,

Đấng Nhật Thân đã nói

Người ấy thường tự giữ

Tiến lên, lìa các sử,

Đoạn diệt mọi kết sử,

Hàng ma, quyến thuộc ma

Người ấy vượt thế gian,

Đã diệt tận các lậu.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ Kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

***