Kinh Nguyên thủy

Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Một - Phẩm đại

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẦN MƯỜI MỘT

PHẨM ĐẠI
 

KINH CHIÊM BA
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật du hóa tại Chiêm Ba, ở bên hồ Hằng Già. Bấy giờ là ngày mười lăm trong tháng, là ngày Thế Tôn thuyết tùng giải thoát, trải tọa ngồi trước chúng Tỳ Kheo.

Khi Đức Thế Tôn ngồi xong, liền nhập định và bằng tha tâm trí Ngài quan sát tâm đại chúng. Khi quan sát tâm đại chúng rồi, cho đến lúc hết buổi đầu hôm, Ngài vẫn ngồi im lặng.

Bấy giờ có một Tỳ Kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, sửa y chắp tay hướng về Đức Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn, đã hết buổi đầu hôm, Phật và Chúng Tỳ Kheo tập trung ngồi đây đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết tùng giải thoát. Bấy giờ, Đức Thế Tôn im lặng không trả lời. Thế rồi, cho đến phần giữa đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng.

Tỳ Kheo kia lại lần nữa, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay hướng về Đức Phật và thưa rằng: Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng sắp hết. Phật và chúng Tỳ Kheo tập trung ngồi đây đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết tùng giải thoát. Đức Thế Tôn lại một lần nữa không trả lời. Thế rồi, cho đến phần cuối đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng.

Tỳ Kheo kia lại lần thứ ba từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay hướng về Đức Thế Tôn mà thưa rằng: Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm cũng sắp hết, Trời gần về sáng, không bao lâu nữa, mặt Trời sẽ mọc. Phật và chúng Tỳ Kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết tùng giải thoát.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo vị Tỳ Kheo kia: Trong chúng này có một thầy Tỳ Kheo làm đã việc bất tịnh. Lúc đó Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên cũng đang ở trong chúng.

Rồi Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên liền suy nghĩ thế này: Vì Tỳ Kheo nào mà Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một thầy Tỳ Kheo đã làm việc bất tịnh?

Ta nên nhập định có hình thức như thế, nhân trong định có hình thức như thế á, bằng tha tâm trí mà quan sát tâm niệm đại chúng.

Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên nhập định có hình thức như thế, nhân trong định có hình thức như thế, bằng tha tâm trí mà quan sát tâm niệm đại chúng.

Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên liền biết vị Tỳ Kheo mà vì vị ấy Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một thầy Tỳ Kheo đã làm việc bất tịnh.

Rồi thì, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên xuất định, đi đến trước vị Tỳ Kheo ấy, nắm tay kéo đi, mở cửa lôi ra bên ngoài mà nói: Này người ngu si, hãy đi xa đi, đừng sống ở đây, không được trở lại hội họp với Đại Chúng Tỳ Kheo, từ nay trở đi ông không phải là Tỳ Kheo nữa.

Ngài đóng cửa, gài chốt then lại, rồi trở về chỗ Đức Phật, cúi đầu sát lạy chân Phật, rồi ngồi sang một bên mà thưa: Vị Tỳ Kheo mà vì vị ấy Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một Tỳ Kheo đã làm việc bất tịnh. Con đã đuổi vị ấy đi rồi.

Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm cũng sắp hết, Trời gần về sáng, không bao lâu nữa, mặt Trời sẽ mọc. Phật và chúng Tỳ Kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết tùng giải thoát.

Đức Thế Tôn nói: Này Đại Mục Kiền Liên, kẻ ngu si sẽ mắc đại tội nếu gây phiền nhiễu cho Đức Thế Tôn và chúng Tỳ Kheo.

Này Đại Đại Mục Kiền Liên, nếu Đức Như Lai ở giữa chúng bất tịnh mà thuyết tùng giải thoát thì đầu người kia sẽ vỡ thành bảy mãnh. Do đó, này Đại Mục Kiền Liên, từ nay về sau các thầy hãy thuyết tùng giải thoát, Đức Như Lai không thuyết tùng giải thoát nữa.

Vì sao như thế?

Vì như vậy, này Đại Mục Kiền Liên, hoặc có người ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri. Khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát. Nghi dung chững chạc, khoác Tăng Già Lê ngay ngắn. Cầm y, bát chỉnh tề.

Đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ ràng, tợ như bậc phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.

Này Đại Mục Kiền Liên, nếu các bậc phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: Đây là sự ô uế đối với Sa Môn, là sự ô nhục đối với Sa Môn, là sự đáng ghét đối với Sa Môn, là gai nhọn đối với Sa Môn. Sau khi biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy.

Vì sao vậy?

Vì không muốn các bậc phạm hạnh phải bị nhiễm ô.

Này Đại Mục Kiền Liên, ví như trong ruộng lúa dé, hoặc ruộng lúa tẻ đang tươi tốt của cư sĩ kia có sanh loại cỏ tên là cỏ uế mạch. Cỏ này có rễ, thân, đốt, lá và hoa thảy đều giống hệt như cây lúa tẻ.

Nhưng sau khi kết hạt thì người cư sĩ kia thấy được, liền suy nghĩ rằng: Đây là sự ô nhục đối với lúa tẻ, là gai nhọn đáng ghét đối với lúa tẻ. Sau khi biết rồi, cư sĩ kia liền nhổ quăng đi hết.

Vì sao vậy?

Vì không muốn giống lúa tẻ đích thật phải bị ô nhiễm.

Cũng vậy, này Đại Mục Kiền Liên, hoặc có người ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri. Khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát. Nghi dung chững chạc, khoác Tăng già lê ngay ngắn, cầm y, bát chỉnh tề.

Đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ ràng, tợ như bậc phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.

Này Đại Mục Kiền Liên, nếu các bậc phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: Đây là sự ô uế đối với Sa Môn, là sự ô nhục đối với Sa Môn, là sự đáng ghét đối với Sa Môn, là gai nhọn đối với Sa Môn. Sau khi biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy.

Vì sao vậy?

Vì không muốn các bậc phạm hạnh phải bị nhiễm ô.

Này Đại Mục Kiền Liên, vì như đến mùa thu, người cư sĩ kia đem giê lúa. Từ trên cao, lúa được đổ từ từ xuống. Nếu là hạt lúa chắc thì nằm lại, còn lúa lép hay trấu thì sẽ theo gió bay đi. Sau đó người cư sĩ kia liền cầm chỗi quét dọn sạch sẽ.

Vì sao vậy?

Vì không muốn hạt lúa dé chắc thật phải bị ô tạp.

Cũng vậy, này Đại Mục Kiền Liên, hoặc có người ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri. Khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát. Nghi dung chững chạc, khoác Tăng Già Lê ngay ngắn, cầm y, bát chỉnh tề.

Đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ ràng, tợ như bậc phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.

Này Đại Mục Kiền Liên, nếu các bậc phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: Đây là sự ô uế đối với Sa Môn, là sự ô nhục đối với Sa Môn, là sự đáng ghét đối với Sa Môn, là gai nhọn đối với Sa Môn. Sau khi biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy.

Vì sao vậy?

Vì không muốn các bậc phạm hạnh phải bị nhiễm ô.

Này Đại Mục Kiền Liên, ví như người cư sĩ kia muốn có nước suối chảy đến nên làm máng dẫn nước. Người ấy cầm búa vào rừng, gõ vào thân các cây. Nếu cây có lõi cứng thì tiếng phát ra nhỏ, còn cây rỗng ruột thì tiếng phát ra lớn. Sau khi biết rõ, người cư sĩ kia liền chặt cây ấy đem về làm máng dẫn nước.

Cũng vậy, này Đại Mục Kiền Liên, hoặc có người ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri. Khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát. Nghi dung chững chạc, khoác Tăng Già Lê ngay ngắn, cầm y, bát chỉnh tề.

Đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ ràng, tợ như bậc phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.

Này Đại Mục Kiền Liên, nếu các bậc phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ nghĩ rằng: Đây là sự ô uế đối với Sa Môn, là sự ô nhục đối với Sa Môn, là sự đáng ghét đối với Sa Môn, là gai nhọn đối với Sa Môn. Sau khi biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy.

Vì sao vậy?

Vì không muốn các bậc phạm hạnh phải bị nhiễm ô. 

Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói bài tụng rằng:

Cùng tập hội, nên biết,

Ác dục, tắng, tật, nhuế

Che giấu, hận, keo kiệt,

Tật đố, siễm, khi cuống.

Trong chúng, giả đạo đức.

Lén lút xưng Sa Môn,

Âm thầm làm việc ác

Ác kiến, không thủ hộ

Khi dối cùng nói láo

Nên biết, người như vậy,

Tập chúng đừng cho vào

Tẫn xuất, không sống chung

Chúng dối trá, láo khoét

Chưa ngộ nói đã ngộ

Biết thời, tu tịnh hạnh,

Đuổi chúng, tránh xa chúng

Hãy cùng người thanh tịnh,

Sống hòa hợp với nhau

Như vậy sẽ an ổn,

Và tận cùng sự khổ.

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ Kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

***