Kinh Nguyên thủy

Phật Thuyết Kinh Trường Bộ

PHẬT THUYẾT KINH TRƯỜNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

An Thế Cao, Đời Hậu Hán
 

KINH ĐẠI DUYÊN
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời, Thế Tôn trụ tại bộ lạc Kuru Câu Lâu, ở ấp Kuru tên là Kammassadhamma Kiếm Ma Sắt Đàm.

Tôn Giả A Nan Đa A Nan đến tại chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.

Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn Giả A Nan Đa bạch Thế Tôn: Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn!

Bạch Thế Tôn, giáo pháp duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy, và giáo pháp này đối với con hết sức minh bạch rõ ràng.

Này A Nan Đa, chớ có nói vậy!

Này A Nan Đa chớ có nói vậy!

Này A Nan Đa, giáo pháp duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy.

Này A Nan Đa, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja Ba Ba La không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Già và chết do duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Già và chết do duyên gì?

Hãy đáp: Già và chết do duyên sanh.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Sanh có duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Sanh do duyên gì?

Hãy đáp: Sanh do duyên hữu.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Hữu có do duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Hữu do duyên gì?

Hãy đáp: Hữu do duyên thủ.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi.

Thủ có do duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Thủ do duyên gì?

Hãy đáp: Thủ do duyên ái.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Ái có duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Ái do duyên gì?

Hãy đáp: Ái do duyên thọ.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Thọ có do duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Thọ do duyên gì?

Hãy đáp: Thọ do duyên xúc.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Xúc có do duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Xúc do duyên gì.

Hãy đáp: Xúc do duyên danh sắc.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Danh sắc có duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Danh sắc do duyên gì?

Hãy đáp: Danh sắc do duyên thức.

Này A Nan Đa, nếu có ai hỏi: Thức có do duyên nào không?

Hãy đáp: Có!

Nếu có hỏi: Thức do duyên gì?

Hãy đáp: Thức do duyên danh sắc.

Này A Nan Đa, như vậy do duyên danh sắc, thức sanh.

Do duyên thức, danh sắc sanh.

Do duyên danh sắc, xúc sanh.

Do duyên xúc, thọ sanh.

Do duyên thọ, ái sanh.

Do duyên ái, thủ sanh.

Do duyên thủ, hữu sanh.

Do duyên hữu, sanh sanh.

Do duyên sanh, lão tử sanh, do duyên lão tử, sầu, bi, khổ, ưu não sanh.

Như vậy là toàn bộ khổ uẩn tập khởi.

Trước đã nói: Do duyên sanh. Lão tử sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên sanh.

Lão Tử sanh?

Này A Nan Đa, nếu sanh không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, như Chư Thiên hay Thiên Giới, Càn Thát Bà hay Càn Thát Bà giới, Dạ Xoa hay Dạ Xoa giới.

Quỷ thần hay quỷ thần giới, loài người hay nhân giới, loại bốn chân hay tứ túc giới, loài chim hay điểu giới, loài trùng xà hay trùng xà giới.

Này A Nan Đa, nếu không có sanh cho tất cả, do sanh diệt thời lão tử có thể hiện hữu không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của Lão Tử, tức là sanh.

Trước đã nói: Do duyên hữu, sanh sanh ra.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên hữu, sanh sanh ra?

Này A Nan Đa, nếu hữu không có bất cứ loại nào giới nào, bất cứ chỗ nào xứ nào, như dục hữu, sắc hữu hay vô sắc hữu.

Nếu không có hữu cho tất cả, do hữu diệt thời sanh có thể hiện hữu không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của sanh, tức là hữu.

Trước đã nói: Do duyên thủ, hữu sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu hỏi: Do duyên thủ, hữu sanh?

Này A Nan Đa, nếu thủ không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, như dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ hay ngã chấp thủ.

Nếu không có thủ cho tất cả, do thủ diệt thời hữu có thể hiện hữu không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của hữu, tức là thủ.

Trước đã nói: Do duyên ái, thủ sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên ái, thủ sanh?

Này A Nan Đa, nếu ái không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, như sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái hay pháp ái.

Nếu không có ái cho tất cả, do ái diệt thời thủ có thể hiện hữu không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của thủ, tức là ái.

Trước đã nói: Do duyên thọ, ái sanh.

Này A Nan Đa, nếu thọ không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, như nhãn xúc sở sanh thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ, tỷ xúc sở sanh thọ, thiệt xúc sở sanh thọ, tỷ xúc sở sanh thọ, ý xúc sở sanh thọ.

Nếu không có thọ cho tất cả, nếu thọ diệt thời ái có thể hiện hữu không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của ái, tức là thọ.

Này A Nan Đa, như vậy do duyên thọ, ái sanh.

Do duyên ái, tìm cầu sanh.

Do duyên tìm cầu, lợi sanh.

Do duyên lợi, quyết định sở dụng của lợ sanh.

Do duyên quyết định, tham dục sanh.

Do duyên tham dục, đam trước sanh.

Do duyên đam trước, chấp thủ sanh.

Do duyên chấp thủ, hà tiện sanh.

Do duyên hà tiện, thủ hộ sanh.

Do duyên thủ hộ, phát sanh một số ác, bất thiện pháp như chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ.

Trước đã nói: Do duyên thủ hộ, phát sanh một số ác, bất thiện pháp, như chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên thủ hộ, phát sanh một số ác, bất thiện pháp, như chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ?

Này A Nan Đa, nếu thủ hộ không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu không có thủ hộ cho tất cả, nếu thủ hộ diệt thời một số ác, bất thiện pháp như chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của một số ác, bất thiện pháp như chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ, tức là thủ hộ.

Trước đã nói: Do duyên hà tiện, thủ hộ sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên hà tiện thủ hộ sanh?

Này A Nan Đa, nếu hà tiện không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu không có hà tiện, cho tất cả, nếu hà tiện diệt thời thủ hộ có thể hiện hữu không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của thủ hộ, tức là hà tiện.

Trước đã nói: Do duyên chấp thủ, hà tiện sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên chấp thủ, hà tiện sanh?

Này A Nan Đa, nếu chấp thủ không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu không chấp thủ cho tất cả, nếu chấp thủ diệt thời hà tiện có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của hà tiện, tức là chấp thủ.

Trước đã nói: Do duyên đam trước, chấp thủ sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên đam trước, chấp thủ sanh?

Này A Nan Đa, nếu đam trước không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu không có đam trước cho tất cả, nếu đam trước diệt thời chấp thủ có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của chấp thủ, tức là đam mê.

Trước đã nói: Do duyên tham dục, đam trước sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên tham dục, đam trước sanh?

Này A Nan Đa, nếu tham dục không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu không có tham dục cho tất cả, nếu tham dục diệt thời đam trước có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của đam trước, tức là tham dục.

Trước đã nói: Do duyên quyết định, tham dục sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên quyết định tham dục sanh?

Này A Nan Đa, nếu quyết định không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu không có quyết định cho tất cả, nếu quyết định diệt thời tham dục có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của tham dục tức là quyết định.

Trước đã nói: Do duyên lợi, quyết định sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên lợi quyết định sanh?

Này A Nan Đa, nếu lợi không có không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu lợi không có cho tất cả, nếu lợi diệt thời quyết định có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của quyết định, tức là lợi.

Trước đã nói: Do duyên tầm cầu, lợi sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên tầm cầu, lợi sanh?

Này A Nan Đa, nếu tầm cầu không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu tầm cầu không có cho tất cả, nếu tầm cầu diệt thời lợi có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của lợi, tức là tầm cầu.

Trước đã nói: Do duyên ái, tầm cầu sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên ái, tầm cầu sanh?

Này A Nan Đa, nếu không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, nếu ái không có cho tất cả, nếu ái diệt thời tầm cầu có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của tầm cầu, tức là ái.

Này A Nan Đa, như vậy hai phương diện của ái tuy hai nhưng hòa hợp thành một, nhờ thọ làm duyên sanh.

Trước đã nói: Do duyên xúc, thọ sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên xúc, thọ sanh?

Này A Nan Đa, nếu xúc không có bất cứ loại nào, bất cứ chỗ nào, như nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc, nếu xúc không có cho tất cả, nếu xúc diệt thời thọ có thể hiện hữu không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của thọ, tức là xúc.

Trước đã nói: Do duyên danh sắc, xúc sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên danh sắc, xúc sanh?

Này A Nan Đa, nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo, nhờ đó mà danh thân và sắc thân thi thiết.

Nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy không có, thời danh mục xúc trong sắc thân có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy nhờ đó mà sắc thân được thi thiết, nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy không có, thời hữu đối xúc trong danh thân có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, những hình, những sắc, những tướng, những mạo nhờ đó mà danh thân và sắc thân được thi thiết, nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy không có, thời danh mục xúc hay hữu đối xúc có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, những hình, những sắc, những tướng, những mạo nhờ đó mà danh sắc được thi thiết, nếu những hình, những sắc, những tướng, những mạo ấy không có thì xúc có thể hiện hữu được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Do vậy, này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của xúc, tức là danh sắc.

Trước đã nói: Do duyên thức, danh sắc sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên thức, danh sắc sanh?

Này A Nan Đa, nếu thức không đi vào trong bụng của người mẹ, thời danh sắc có thể hình thành trong bụng bà mẹ không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, nếu thức đi vào trong bụng bà mẹ rồi bị tiêu diệt, thời danh sắc có thể hình thành trạng thái này, trạng thái khác không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, nếu thức bị đoạn trừ trong đứa con nít, hoặc là đồng nam hay đồng nữ, thời danh sắc có thể lớn hơn, trưởng thành và thành mãn được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Do vậy, này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của danh sắc, tức là thức.

Trước đã nói: Do duyên danh sắc, thức sanh.

Này A Nan Đa, phải hiểu như thế nào câu nói: Do duyên sanh sắc thức sanh?

Này A Nan Đa, nếu thức không an trú được trong danh sắc, thời trong tương lai, có thể hiện hữu sự hình thành của sanh, lão, tử, khổ, tập không?

Bạch Thế Tôn, không!

Do vậy, này A Nan Đa, như vậy là nhân, như vậy là duyên, như vậy là tập khởi, như vậy là nhân duyên của thức, tức là danh sắc.

Này A Nan Đa, trong giới hạn con người được sanh, con người được già, con người được chết, con người được diệt, hay con người được tái sanh, trong giới hạn ấy là danh mục đạo, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ đạo, trong giới hạn ấy là thi thiết đạo.

Trong giới hạn ấy là tuệ giới, trong giới hạn ấy là lưu chuyển luân hồi hiện hữu trạng thái này trạng thái khác nghĩa là danh sắc và thức.

Này A Nan Đa, có bao nhiêu lời tuyên bố về ngã?

Này A Nan Đa, hoặc ngã được tuyên bố là có sắc và hạn lượng trong câu: Ngã của tôi có sắc và hạn lượng.

Này A Nan Đa, hoặc ngã được tuyên bố là có sắc và vô lượng trong câu: Ngã của tôi có sắc và vô lượng.

Này A Nan Đa, hoặc ngã được tuyên bố là không có sắc và có hạn lượng trong câu: Ngã của tôi không có sắc và có hạn lượng.

Này A Nan Đa, hoặc ngã được tuyên bố là không có sắc và vô lượng trong câu: Ngã của tôi không có sắc và vô lượng.

Này A Nan Đa, có người tuyên bố ngã có sắc và có hạn lượng trong hiện tại, người này tuyên bố hoặc ngã có sắc và có hạn lượng trong tương lai.

Hoặc như thế này: Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy.

Này A Nan Đa, sự việc là như vậy thời lời tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và có hạn lượng như vậy là quá đủ rồi.

Này A Nan Đa, có người tuyên bố ngã có sắc và vô lượng người này tuyên bố hoặc ngã có sắc và vô lượng trong hiện tại, hoặc ngã có sắc và vô lượng trong tương lai.

Hoặc như thế này: Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy.

Này A Nan Đa, sự việc là như vậy thời lời tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi.

Này A Nan Đa, có người tuyên bố ngã không có sắc và có hạn lượng, người này tuyên bố hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong hiện tại hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong tương lai hoặc ngã không có sắc và vô lượng trong tương lai.

Hoặc như thế này: Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy.

Này A Nan Đa, sự việc là như vậy thời lời tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi.

Này A Nan Đa, như vậy, là có bấy nhiêu lời tuyên bố về ngã.

Này A Nan Đa, có bao nhiêu lời không tuyên bố về ngã?

Này A Nan Đa, hoặc ngã không được tuyên bố là có sắc và có hạn lượng trong câu: Ngã của tôi có sắc và có hạn lượng.

Này A Nan Đa, hoặc ngã không được tuyên bố là có sắc và vô lượng trong câu: Ngã của tôi có sắc và vô lượng.

Này A Nan Đa, hoặc ngã không được tuyên bố là không có sắc và có hạn lượng trong câu: Ngã của tôi không có sắc và có hạn lượng.

Này A Nan Đa, hoặc ngã không được tuyên bố là không có sắc và vô lượng trong câu: Ngã của tôi không có sắc và vô lượng.

Này A Nan Đa, có người không tuyên bố ngã có sắc và có hạn lượng, người này không tuyên bố, hoặc ngã có sắc và có hạn lượng trong hiện tại, hoặc ngã có sắc và có hạn lượng trong tương lai.

Hoặc không như thế này: Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy.

Này A Nan Đa, sự việc là như vậy thời lời không tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và có hạn lượng như vậy là quá đủ rồi.

Này A Nan Đa, có người không tuyên bố ngã có sắc và vô lượng, người này không tuyên bố hoặc ngã có sắc và vô lượng trong hiện tại, hoặc ngã có sắc và vô lượng trong tương lai. Hoặc không như thế này. Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy.

Này A Nan Đa, sự việc là như vậy thời lời không tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi.

Này A Nan Đa, có người không tuyên bố ngã không có sắc và có hạn lượng, người này tuyên bố, hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong hiện tại, hoặc ngã không có sắc và có hạn lượng trong tương lai.

Hoặc không như thế này: Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy.

Này A Nan Đa, sự việc là như vậy thời lời không tuyên bố về tà kiến ngã không có sắc và có hạn lượng như vậy là quá đủ rồi.

Này A Nan Đa, có người không tuyên bố ngã không có sắc và vô lượng, người này không tuyên bố ngã không có sắc và vô lượng trong hiện tại, hoặc ngã không có sắc và vô lượng trong tương lai.

Hoặc không như thế này: Ngã của tôi không phải như vậy, tôi sẽ uốn nắn cho như vậy.

Này A Nan Đa, sự việc là như vậy thời lời không tuyên bố về tà kiến ngã có sắc và vô lượng như vậy là quá đủ rồi.

Này A Nan Đa, như vậy là có bấy nhiêu lời không tuyên bố về ngã.

Này A Nan Đa, dưới bao nhiêu hình thức, ngã được quan niệm?

Này A Nan Đa, ngã được quan niệm như thọ trong câu: Ngã của tôi là thọ.

Hay trái lại: Ngã của tôi không phải là thọ, ngã của tôi không có cảm thọ.

Này A Nan Đa, hoặc ngã được quan niệm như trong câu: Ngã của tôi không phải là thọ, cũng không phải là không có cảm thọ.

Ngã của tôi có cảm thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ.

Như vậy, này A Nan Đa, ngã được quan niệm.

Này A Nan Đa, ai nói: Ngã của tôi là thọ.

Người ấy cần được trả lời: Này Hiền Giả, có ba loại cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.

Trong ba loại thọ này, loại nào ông xem là ngã?

Này A Nan Đa, khi cảm giác một lạc thọ, chúng ta không cảm giác một khổ thọ, không cảm giác một bất khổ bất lạc thọ, khi ấy chỉ cảm giác một lạc thọ thôi.

Này A Nan Đa, khi cảm giác một khổ thọ, chúng ta không cảm giác một lạc thọ, không cảm giác một bất khổ bất lạc thọ, khi ấy chỉ cảm giác một khổ thọ thôi.

Này A Nan Đa, khi cảm giác một bất khổ bất lạc thọ, chúng ta không cảm giác một lạc thọ, không cảm giác một khổ thọ, khi ấy chỉ cảm giác một bất khổ bất lạc thọ thôi.

Lại nữa, này A Nan Đa, lạc thọ là vô thường, hữu vi, là pháp duyên khởi, là pháp đoạn hoại, là pháp đoạn diệt, là pháp ly dục, là pháp diệt tận.

Này A Nan Đa, khổ thọ là vô thường, hữu vi, là pháp duyên khởi, là pháp đoạn hoại, là pháp đoạn diệt, là pháp ly dục, là pháp diệt tận.

Này A Nan Đa, bất khổ bất lạc thọ là vô thường, hữu vi, là pháp duyên khởi, là pháp đoạn hoại, là pháp đoạn diệt, là pháp ly dục, là pháp diệt tận.

Khi cảm giác một lạc thọ mà nói rằng: Ðó là ngã của tôi.

Thời khi lạc thọ ấy diệt mất người ấy cũng nghĩ rằng: Ngã của tôi cũng diệt.

Khi cảm giác một khổ thọ mà nói rằng: Ðó là ngã của tôi.

Thời khi khổ thọ ấy diệt mất người ấy cũng nghĩ rằng: Ngã của tôi cũng diệt.

Khi cảm giác một bất khổ bất lạc thọ mà nói rằng: Ðó là ngã của tôi.

Thời khi bất khổ bất lạc thọ ấy diệt mất, người ấy cũng nghĩ rằng: Ngã của tôi cũng diệt.

Vậy những ai nói rằng: Ngã của tôi là thọ.

Người ấy sẽ xem ngã của mình như một cái gì trong hiện tại, cái gì ấy là vô thường, lạc khổ xen lẫn, là pháp sanh diệt.

Do vậy, này A Nan Đa, không thể chấp nhận quan niệm ngã của tôi là thọ.

Này A Nan Đa, ai nói như sau: Ngã của tôi không phải là thọ, ngã của tôi không có cảm thọ.

Người ấy cần được trả lời: Này Hiền Giả, chỗ nào không có một cảm thọ gì cả, chỗ ấy có thể xem là tôi có được không?

Bạch Thế Tôn, không!

Do vậy, này A Nan Đa, không thể chấp nhận quan niệm ngã của tôi không phải là thọ, ngã của tôi không có cảm thọ.

Này A Nan Đa, ai nói như sau: Ngã của tôi không phải là thọ, ngã của tôi không phải không có cảm thọ. Ngã của tôi có cảm thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ.

Người ấy cần được trả lời: Này Hiền Giả nếu tất cả mọi loại cảm thọ đều đoạn diệt hoàn toàn, khi không còn một loại cảm thọ nào cả, khi thọ đã tận diệt, thời ở tại chỗ ấy.

Có thể nói: Tôi là như vậy chăng?

Bạch Thế Tôn, không!

Do vậy, này A Nan Đa, không thể chấp nhận quan niệm ngã của tôi không phải là thọ, ngã của tôi không phải không có cảm thọ.

Ngã của tôi có cảm thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ.

Này A Nan Đa, khi có một vị Tỳ Kheo không quan niệm ngã là thọ, không quan niệm ngã không phải thọ, không quan niệm: Ngã của tôi là thọ, ngã của tôi có khả năng cảm thọ. Khi ấy vị này sẽ không chấp trước một điều gì ở trên đời, vì không chấp trước nên không sợ hãi. Vì không sợ hãi nên hoàn toàn tự mình tịch diệt.

Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, sau đời này không còn đời nào khác nữa.

Này A Nan Đa, với vị Tỳ Kheo có tâm giải thoát như vậy, nếu có ai nói vị Tỳ Kheo ấy có tà kiến như sau: Như Lai có tồn tại sau khi chết thời thật hoàn toàn phi lý.

Hoặc có tà kiến như sau: Như Lai không có tồn tại sau khi chết, thời thật hoàn toàn phi lý.

Hoặc có tà kiến như sau: Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, thời thật hoàn toàn phi lý.

Hoặc có tà kiến như sau: Như Lai không có tồn tại và không không có tồn tại sau khi chết, thời thật hoàn toàn phi lý.

Tại sao vậy?

Này A Nan Đa, ví dầu có bao nhiêu danh mục, bao nhiêu danh mục đạo, dầu có bao nhiêu ngôn ngữ, bao nhiêu ngôn ngữ đạo, dầu có bao nhiêu thi thiết, bao nhiêu thi thiết đạo, dầu có bao nhiêu trí tuệ, bao nhiêu trí tuệ giới, dầu có bao nhiêu luân chuyển, bao nhiêu vận hành, với thắng trí hiểu biết tất cả, vị Tỳ Kheo được giải thoát.

Với vị Tỳ Kheo thắng trí giải thoát như vậy mà nói rằng vị Tỳ Kheo ấy không biết, không thấy, thời thật là một sự phi lý.

Này A Nan Đa, có bảy Trú xứ của thức và hai xứ.

Thế nào là bảy?

Này A Nan Đa, có những loại hữu tình, thân dị loại và tưởng dị loại, như loài người, một số Chư Thiên và một số trong địa ngục. Ðó là Trú xứ thứ nhất của thức.

Này A Nan Đa, có những loại hữu tình, thân dị loại nhưng tưởng nhất loại, như các vị Phạm Chúng Thiên được sanh vào cõi ấy, nhờ Sơ Thiền. Ðó là Trú xứ thứ hai của thức.

Này A Nan Đa, có những loại hữu tình, thân nhất loại nhưng tưởng dị loại, như các vị Quang Âm Thiên Abhassarà. Ðó là Trú xứ thứ ba của thức.

Này A Nan Đa, có những loại hữu tình, thân nhất loại và tưởng cũng nhất loại, như các vị Biến Tịnh Thiên Subhakinna. Ðó là Trú xứ thứ tư của thức.

Này A Nan Đa, có những loại hữu tình, vượt ra khỏi tất cả sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không suy tư đến mọi dị loại tưởng, chỉ có tưởng hư không là vô biên, được sanh vào cõi hư không vô biên xứ. Ðó là Trú xứ thứ năm của thức.

Này A Nan Đa, có những loại hữu tình hoàn toàn vượt ra khỏi Không vô biên xứ, chỉ có tưởng thức là vô biên, được sanh vào Cõi Thức vô biên xứ. Ðó là Trú xứ thứ sáu của thức.

Này A Nan Đa, có những loại hữu tình, hoàn toàn vượt ra khỏi Thức vô biên xứ, chỉ có tưởng vô sở hữu, được sanh vào Cõi Vô sở hữu xứ. Ðó là Trú xứ thứ bảy của thức. Hai xứ là Vô tưởng hữu tình xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Này A Nan Đa, trong Thức trú xứ thứ nhất có thân dị loại và tưởng dị loại này, như loài người, một số Chư Thiên và một số hữu tình trong địa ngục.

Này A Nan Đa nếu có ai hiểu được Trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của Trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích Trú xứ này không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, trong Thức trú xứ thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu. Này A Nan Đa, trong Thức trú xứ thứ bảy, hoàn toàn vượt ra khỏi Thức vô biên xứ, chỉ có Tưởng vô sở hữu, được sanh vào Cõi Vô sở hữu xứ.

Này A Nan Đa nếu có ai hiểu được Trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích Trú xứ này không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, với Vô tưởng hữu tình xứ này, này A Nan Đa, nếu có ai hiểu được Trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của Trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích Trú xứ này không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, với Phi tưởng phi phi tưởng xứ này, này A Nan Đa nếu có ai hiểu được Trú xứ này, hiểu được sự tập khởi, hiểu được sự đoạn diệt, hiểu được vị ngọt, hiểu được sự nguy hiểm và hiểu được sự xuất ly của Trú xứ này, một vị như vậy có thể còn hoan hỷ ưa thích Trú xứ này không?

Bạch Thế Tôn, không!

Này A Nan Đa, bởi bảy Thức trú xứ và hai xứ này, nếu có vị Tỳ Kheo đã như chân hiểu được tập khởi, đoạn trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm, xuất ly của chúng, nhờ không còn chấp thủ, vị này được giải thoát.

Này A Nan Đa, vị Tỳ Kheo như vậy được gọi là tuệ giải thoát.

Này A Nan Đa, có tám giải thoát.

Thế nào là tám?

Tự mình có sắc, thấy các sắc, đó là sự giải thoát thứ nhất.

Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc, đó là sự giải thoát thứ hai.

Quán tưởng sắc là tịnh, Chú tâm trên suy tưởng ấy, đó là sự giải thoát thứ ba.

Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không tác ý đến những tưởng khác biệt, với suy tư hư không là vô biên, chứng và trú Không vô biên xứ, đó là sự giải thoát thứ tư.

Vượt khỏi hoàn toàn Không vô biên xứ, với suy tư thức là vô biên, chứng và trú Thức vô biên xứ, đó là giải thoát thứ năm.

Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư không có vật gì, chứng và trú Vô sở hữu xứ, đó là sự giải thoát thứ sáu.

Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó là sự giải thoát thứ bảy.

Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú diệt thọ tưởng, đó là sự giải thoát thứ tám.

Này A Nan Đa, như vậy là tám giải thoát.

Này A Nan Đa, khi một vị Tỳ Kheo thuận thứ thể nhập tám giải thoát này, có thể nhập và có thể xuất khỏi bất cứ giải thoát nào khi nào mình muốn, chỗ nào mình muốn và dài bao lâu mình muốn và với các lậu hoặc được đoạn trừ.

Vị Tỳ Kheo chứng và an trú trong tám giải thoát và tuệ giải thoát, không còn lậu hoặc ngay trong thời hiện tại, tự mình thấu đạt và chứng ngộ.

Này A Nan Đa, không còn có một câu giải thoát nào khác cao hơn và thù thắng hơn câu giải thoát này.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn Giả A Nan Đa hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

***