Kinh Nguyên thủy

Phật Thuyết Kinh Trường Bộ - Kinh Thập Thượng

PHẬT THUYẾT KINH TRƯỜNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

An Thế Cao, Đời Hậu Hán
 

KINH THẬP THƯỢNG
 

PHẦN BẢY

TÁM PHÁP
 

Có tám pháp có nhiều tác dụng, có tám pháp cần phải tu tập, có tám pháp cần phải biến tri, có tám pháp cần phải đoạn trừ, có tám pháp chịu phần tai hại, có tám pháp đưa đến thù thắng, có tám pháp rất khó thể nhập, có tám pháp cần được sanh khởi, có tám pháp cần được thắng tri, có tám pháp cần được tác chứng.

Thế nào là tám pháp có nhiều tác dụng?

Có tám nhân, tám duyên đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được, đưa đến bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn nếu đã chứng được.

Này các Hiền giả, ở đây, ai sống gần bậc Đạo Sư, hoặc một vị đồng phạm hạnh đáng tôn kính, nhờ vậy mà tàm quý được sắc sảo, ái lạc và cung kính được an trú.

Như vậy là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được, đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn nếu đã chứng được.

Ai sống gần bậc Đạo Sư, hoặc một vị đồng phạm hạnh đáng tôn kính, nhờ vậy mà tàm quý được sắc sảo, ái lạc và cung kính được an trú.

Người này thỉnh thoảng đến các vị ấy và đặt những câu hỏi:

Này Tôn Giả, vấn đề này là thế nào?

Vấn đề này nghĩa như thế nào?

Và các vị này đối với người ấy, nêu rõ những gì bị che khuất, phơi bày ra những gì bị giấu kín, và diệt trừ mọi nghi ngờ đối với những vấn đề đang còn nghi ngờ.

Như vậy là nhân thứ hai, duyên thứ hai đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn nếu đã chứng được. Sau khi đã nghe pháp, vị này được hai sự an tịnh, an tịnh về thân và an tịnh về tâm.

Như vậy là nhân thứ ba, duyên thứ ba, đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được. Đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn, nếu đã chứng được.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự giới bổn Patimokka, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong các học pháp.

Như vậy là nhân thứ tư, duyên thứ tư, đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được. Đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn, nếu đã chứng được.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo đa văn, ghi nhớ điều đã nghe, chất chứa điều đã nghe. Với các pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, đề cao phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh.

Những pháp ấy, vị ấy nghe nhiều, gìn giữ, ghi nhớ, nhờ lặp đi lặp lại, tâm ý suy tư, khéo thành đạt chánh trí. Như vậy là nhân thứ năm, duyên thứ năm, đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được.

Đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn, nếu đã chứng được. Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo sống tinh cần, tinh tấn, đoạn trừ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, vững chắc, kiên trì đối với các thiện pháp.

Như vậy là nhân thứ sáu, duyên thứ sáu, đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được. Đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn, nếu đã chứng được.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo có chánh niệm, có chánh niệm tối thượng và phân tích rõ ràng ghi nhận, nhớ rõ điều làm đã lâu ngày, nói đã lâu ngày.

Như vậy là nhân thứ bảy, là duyên thứ bảy, đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được. Đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn, nếu đã chứng được.

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỳ Kheo sống quán sát sự sanh diệt của năm thủ uẩn: Ðây là sắc, đây là tập của sắc, đây là diệt của sắc. Ðây là thọ. Ðây là tưởng. Ðây là hành. Ðây là thức. Ðây là tập của thức, đây là diệt của thức.

Như vậy là nhân thứ tám, duyên thứ tám, đưa đến chứng đắc trí tuệ căn bản phạm hạnh nếu chưa chứng được. Đưa đến sự bội tăng, quảng đại, phát triển, viên mãn, nếu đã chứng được. Như vậy là tám pháp có nhiều tác dụng.

Thế nào là tám pháp cần phải tu tập?

Bát Thánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Ðây là tám pháp cần phải tu tập.

Thế nào là tám pháp cần phải biến tri?

Tám thế pháp: Ðắc và không đắc, không có thanh danh và có thanh danh, chê và khen, lạc và khổ. Như vậy là tám pháp cần phải biến tri.

Thế nào tám pháp cần được đoạn trừ?

Tám tà: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Như vậy là tám pháp cần phải đoạn trừ.

Thế nào là tám pháp chịu phần tai hại?

Tám giải đãi sự: Này các Hiền giả, ở đây có việc vị Tỳ Kheo phải làm.

Vị này nghĩ: Có công việc ta sẽ phải làm. Nếu ta làm việc, thời thân ta sẽ mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống.

Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được, như vậy là giải đãi sự thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa, một việc đã được vị Tỳ Kheo làm.

Vị này nghĩ: Ta đã làm một công việc. Do ta làm một công việc nên thân ta mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn. Như vậy là giải đãi sự thứ hai.

Này các Hiền giả, lại nữa, có con đường vị Tỳ Kheo phải đi.

Vị này nghĩ: Khi ta đi con đường ấy, thân ta sẽ mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn. Như vậy là giải đãi sự thứ ba.

Này các Hiền giả, lại nữa, con đường vị Tỳ Kheo đã đi.

Vị này nghĩ: Ta đã đi con đường, do ta đã đi con đường nên thân ta mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn Như vậy là giải đãi sự thứ tư.

Này các Hiền giả, vị Tỳ Kheo đi khất thực ở làng hay tại đô thị không nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn.

Vị ấy nghĩ: Ta đi khất thực ở làng hay đô thị, không nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm đầy đủ như ý muốn. Thân này của ta bị mệt mỏi không lợi ích gì. Vậy ta nên nằm xuống. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn. Như vậy là giải đãi sự thứ năm.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo, trong khi đi khất thực tại làng hay thị xã nhận được các đồ ăn loại cứng hay đố ăn loại mềm đầy đủ như ý muốn.

Vị ấy nghĩ: Ta đi khất thức tại làng hay tại thị xã, nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Thân này của ta nặng nề, không làm được gì, như một nhóm đậu.

Vậy ta nên nằm xuống. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn như vậy là giải đãi sự thứ sáu.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo bị đau bệnh nhẹ.

Vị này nghĩ: Nay ta bị đau bệnh nhẹ, cần phải nằm nghỉ. Vậy ta nên nằm xuống. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn Như vậy là giải đãi sự thứ bảy.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu.

Vị ấy nghĩ: Ta mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Thân này của ta yếu đuối, không làm được việc gì, vậy ta hãy nằm xuống.

Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu được, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được. Như vậy là giải đãi sự thứ tám.

Như vậy là tám pháp chịu phần tai hại.

Thế nào là tám pháp hướng đến thù thắng?

Tám tinh tấn sự: Này các Hiền giả, ở đây có việc vị Tỳ Kheo phải làm, vị ấy nghĩ: Có công việc, ta sẽ phải làm, nếu ta làm việc, thì không dễ gì ta có thể suy tư đến giáo pháp Chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, để thành tựu điều gì chưa thành tựu được, để chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được.

Và vị ấy tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, để thành tựu điều gì chưa thành tựu được, để chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được. Như vậy là tinh tấn sự thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo đã làm xong công việc, vị ấy nghĩ: Ta đã làm xong công việc. Khi ta làm công việc, ta không thể suy tư đến giáo pháp của Chư Phật. Vậy ta phải cố gắng tinh tấn. Vị ấy tinh tấn. Như vậy là tinh tấn sự thứ hai.

Này các Hiền giả, lại nữa, có con đường vị Tỳ Kheo phải đi.

Vị này nghĩ: Ðây là con đường mà ta có thể sẽ phải đi. Khi ta đi con đường ấy, không dễ gì ta có thể suy tư đến giáo pháp của Chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh Vị ấy tinh tấn. Như vậy là tinh tấn sự thứ ba.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo đã đi con đường.

Vị này nghĩ: Ta đã đi con đường ấy. Khi ta đi con đường, ta không có thể suy tư đến giáo pháp của Chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn. Vị ấy tinh tấn. Như vậy là tinh tấn sự thứ tư.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị, không nhận được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm đầy đủ như ý muốn.

Vị này nghĩ: Ta trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị, không nhận được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn.

Thân ta như vậy nhẹ nhàng có thể làm việc. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn và vị ấy tinh tấn. Như vậy là tinh tấn sự thứ năm.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị được các loại đồ ăn loại cứng hay loại đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn.

Vị này nghĩ: Ta trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn.

Như vậy thân ta mạnh, có thể làm việc, vậy ta hãy cố gắng tinh tấn và vị ấy tinh tấn. Như vậy là tinh tấn sự thứ sáu.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo bị đau bệnh nhẹ.

Vị ấy nghĩ: Ta nay bị đau bệnh nhẹ, sự kiện này có thể xảy ra, bệnh này có thể trầm trọng hơn. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn Và vị ấy tinh tấn. Như vậy là tinh tấn sự thứ bảy.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỳ Kheo mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu.

Vị ấy nghĩ: Ta mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Sự kiện này có thể xảy ra, bệnh của ta có thể trở lại. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, thành tựu điều gì chưa thành tựu được, chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được.

Và vị ấy tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, thành tựu điều gì chưa thành tựu được, và chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được. Ðó là tinh tấn sự thứ tám.

Như vậy là tám pháp hướng đến thù thắng.

Thế nào là tám pháp rất khó thể nhập?

Phạm hạnh trú, tám bất thời bất tiết: Này các Hiền giả, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết Bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy sanh vào địa ngục. Ðó là phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết Bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy sanh vào bàng sanh. Ðó là phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ hai.

Sanh vào ngạ quỷ bất thời bất tiết thứ ba.

Sanh vào hàng Chư Thiên được thọ mạng lâu dài bất thời bất tiết thứ tư.

Sanh vào các biên địa, giữa các loài mọi rợ vô trí, những chỗ mà các hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ không có đất đứng. Ðó là phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ năm.

Này các Hiền giả, lại nữa, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết Bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị.

Và người ấy được sanh vào các Trung Quốc, nhưng lại theo tà kiến điên đảo: Không có bố thí, không có cúng dường, không có cúng tế, không có quả báo các hành vi thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có các loài hóa sanh, không có các vị Sa Môn, Bà La Môn đã chứng đạt chân chánh, đã thực thành chân chánh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ Thế Giới này với Thế Giới sau và tuyên thuyết. Ðó là phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ sáu.

Này các Hiền giả, lại nữa, Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết Bàn, tiến đến giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy sinh vào tại các nước Trung Quốc, nhưng ác tuệ, ngu si, điếc, ngọng, không biết nghĩa lý được khéo nói hay vụng nói. Ðó là phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ bảy.

Này các Hiền giả, lại nữa Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, nhưng pháp không được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết Bàn, tiến đến giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị, và người ấy sanh vào tại các nước Trung Quốc nhưng có trí tuệ, không ngu si, không điếc ngọng, biết nghĩa lý được khéo nói hay vụng nói. Ðó là phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ tám.

Như vậy là tám pháp rất khó thể nhập.

Thế nào là tám pháp cần được sanh khởi?

Tám Ðại Nhân tầm:

Pháp này cho người thiểu dục, pháp này không phải cho người đa dục.

Pháp này cho người tri túc, pháp này không phải cho người không tri túc.

Pháp này cho người an tịnh độc cư, pháp này không phải cho người ưa tụ hội.

Pháp này cho người siêng năng tinh tấn, pháp này không phải cho người giải đãi.

Pháp này cho người có niệm hiền tiền, pháp này không phải cho người thất niệm.

Pháp này là cho người có định tâm, pháp này không phải cho người không có định tâm.

Pháp này cho người có trí tuệ, pháp này không phải cho người có ác tuệ.

Pháp này cho người không ưa thích lý luận, pháp này không phải cho người ưa thích lý luận.

Như vậy là tám pháp cần được sanh khởi.

Thế nào là tám pháp cần được thắng tri?

Tám thắng xứ: Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu.

Vị ấy nhận thức rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ nhất. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.

Vị ấy nhận thức rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ hai. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu.

Vị ấy nhận thức rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ ba. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.

Vị ấy nhận thức rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ tư.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh  như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh  như lụa Ba La Nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh.

Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh.

Vị ấy nhận thức rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ năm.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng  như bông kanikàra màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng  như lụa Ba La Nại cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng.

Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ sáu.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ  như bông bandhujìvaka màu đỏ  như lụa Ba La Nại cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ.

Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ bảy.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng  như sao mai osadhi màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, như lụa Ba La Nại cả hai mặt láng trơn màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng.

Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, vị ấy nhận thứ rằng: Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy, đó là thắng xứ thứ tám.

Như vậy là tám pháp cần được thắng tri.

Thế nào là tám pháp cần được chứng ngộ?

Tám giải thoát: Tự mình có sắc, thấy các sắc. Đó là giải thoát thứ nhất. Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc. Đó là giải thoát thứ hai.

Quán tưởng sắc là tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy. Đó là giải thoát thứ ba.

Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến những tưởng khác biệt, với suy tư hư không là vô biên chứng và trú Không vô biên xứ. Đó là giải thoát thứ tư.

Vượt khỏi hoàn toàn hư không vô biên xứ, với suy tư Thức là vô biên chứng và trú Thức vô biên xứ. Đó là giải thoát thứ năm.

Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư không có vật gì chứng và trú Vô sở hữu xứ. Đó là giải thoát thứ sáu.

Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là giải thoát thứ bảy.

Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng. Đó là giải thoát thứ tám.

Như vậy là tám pháp cần được chứng ngộ. Như vậy tám mươi pháp này là chân, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh Đẳng Chánh Giác.

Chín pháp: Có chín pháp có nhiều tác dụng, có chín pháp cần phải tu tập, có chín pháp cần phải biến tri, có chín pháp cần phải đoạn trừ, có chín pháp chịu phần tai hại, có chín pháp đưa đến thù thắng, có chín pháp rất khó thể nhập, có chín pháp cần được sanh khởi, có chín pháp cần được thắng tri, có chín pháp cần được chứng ngộ.

Thế nào là chín pháp có nhiều tác dụng?

Chín pháp tư duy về căn pháp:

Do chánh tư duy, hân hoan sinh.

Do hân hoan, hỷ sanh.

Do tâm hoan hỷ, thân được khinh an.

Do thân khinh an, lạc thọ sanh.

Do lạc thọ, tâm được định tỉnh.

Do tâm định tỉnh, biết được, thấy được sự vật như chân.

Do biết, nhờ thấy như chân, yểm ly sanh.

Do yểm ly, ly dục sanh.

Do ly dục, vị ấy được giải thoát.

Như vậy là chín pháp có nhiều tác dụng.

Thế nào là chín pháp cần phải tu tập?

Chín thanh tịnh cần chi: Giới hạnh thanh tịnh thanh tịnh cần chi, tâm thanh tịnh thanh tịnh cần chi, kiến thanh tịnh thanh tịnh cần chi, đoạn nghi thanh tịnh thanh tịnh cần chi, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh thanh tịnh cần chi, tri kiến thanh tịnh thanh tịnh cần chi, tuệ thanh tịnh thanh tịnh cần chi, giải thoát thanh tịnh thanh tịnh cần chi.

Như vậy là chín pháp cần được tu tập.

Thế nào là chín pháp cần được biến tri?

Chín hữu tình trú: 

Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng sai biệt, như loài người, một số Chư Thiên, một số ở tại các đọa xứ. Ðó là hữu tình Trú xứ thứ nhất.

Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng đồng nhất, như Phạm Chúng thiên khi mới tái sanh. Ðó là hữu tình Trú xứ thứ hai.

Này các Hiền giả, có loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng sai biệt như Chư Quang Âm Thiên. Ðó là hữu tình Trú xứ thứ ba.

Này các Hiền giả, có loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng đồng nhất như Chư Tịnh Cư Thiên. Ðó là hữu tình Trú xứ thứ tư.

Này các Hiền giả, có những loài hữu tình không có tưởng, không có thọ, như Chư Vô Tưởng Thiên. Ðó là hữu tình Trú xứ thứ năm.

Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi sắc tưởng một cách hoàn toàn, diệt trừ các sân tưởng, không có tác ý sai biệt tưởng, chứng được hư không vô biên xứ. Hư không là vô biên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ sáu.

Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi hư không vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng Thức vô biên xứ. Thức là vô biên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ bảy.

Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng Vô sở hữu xứ. Không có vật gì. Ðó là hữu tình trú xứ thứ tám.

Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó là hữu tình trú xứ thứ chín.

Như vậy là chín pháp cần được biến tri.

Thế nào là chín pháp cần phải đoạn trừ?

Chín ái căn pháp:

Do duyên ái, tầm cầu sanh.

Do duyên tầm cầu, đắc lợi sanh.

Do duyên đắc lợi, phân biệt sanh.

Do duyên phân biệt, tham dục sanh.

Do duyên tham dục, thủ trước sanh.

Do duyên thủ trước.

Chấp trì sanh.

duyên chấp trì, xan tham sanh.

Do duyên xam tham.

Hộ trì sanh.

Do duyên hộ trì, chấp trượng, chấp kiến, tránh tụng, tranh luận, tương phản, ly gián ngữ, vọng ngôn, và các ác bất thiện pháp khai sanh.

Như vậy là chín pháp cần phải đoạn trừ.

Thế nào là chín pháp chịu phần tai hại?

Chín hại tâm:

Người ấy đã làm hại tôi, xung đột khởi lên.

Người ấy đang làm hại tôi, xung đột khởi lên.

Người ấy sẽ làm hại tôi, xung đột khởi lên.

Người ấy đã làm hại người tôi thương, người tôi mến người ấy đang làm hại người ấy sẽ làm hại, xung đột khởi lên.

Người ấy đã làm lợi cho người tôi không thương, không mến người ấy đang làm lợi, người ấy sẽ làm lợi, xung đột khởi lên.

Như vậy là chín pháp chịu phần tai hại.

Thế nào là chín pháp hướng đến thù thắng?

Chín điều phục hại tâm:

Người ấy đã làm hại tôi.

Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?

Nhờ vậy xung đột được điều phục. Người ấy đang làm hại tôi.

Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?

Nhờ vậy xung đột được điều phục. Người ấy sẽ làm hại tôi.

Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?

Nhờ vậy, xung đột được điều phục. Người ấy đã làm hại người tôi thương, người ấy đang làm hại, người ấy sẽ làm hại người tôi thương, người tôi mến.

Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?

Nhờ vậy xung đột được điều phục. Người ấy đã làm lợi cho người tôi không thương, không mến, người ấy đang làm lợi, người ấy sẽ làm lợi.

Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?

Nhờ vậy xung đột được điều phục. Như vậy là chín pháp hướng đến thù thắng.

Thế nào là chín pháp rất khó thể nhập?

Chín loại sai biệt:

Do duyên giới sai biệt, xúc sai biệt sanh.

Do duyên xúc sai biệt, thọ sai biệt sanh.

Do duyên thọ sai biệt.

Tưởng sai biệt sanh.

Do duyên tưởng sai biệt, tư duy sai biệt sanh.

Do duyên tư duy sai biệt, dục sai biệt sanh.

Do duyên dục sai biệt, nhiệt tình sai biệt sanh.

Do duyên nhiệt tình sai biệt.

Tầm cầu sanh.

Do duyên tầm cầu, sai biệt, đắc lợi sanh.

Như vậy là chín pháp rất khó thể nhập.

Thế nào là chín pháp cần được sanh khởi?

Chín tưởng: Bất tịnh tưởng, tử tưởng, thực yểm ly tưởng, nhất thiết thế gian bất lạc tưởng, vô thường tưởng, khổ tâm tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên ngã, đoạn trừ tưởng, vô tham tưởng. Như vậy là chín pháp cần được sanh khởi.

Thế nào là chín pháp cần được thắng tri?

Chín thứ đệ trú: Này các Hiền giả, ở đây có vị Tỳ Kheo, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú vào thiền thứ nhất, có tầm có tứ có hỷ lạc do ly dục sanh.

Diệt tầm diệt tứ.

Thiền thứ hai.

Thiền thứ ba.

Chứng và trú vào thiền thứ tư.

Sau khi vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, sau khi trừ diệt các hữu đối tưởng, không có tác ý với các sai biệt tưởng, chứng và trú hư không vô biên xứ: Hư Không là vô biên.

Sau khi vượt qua hư không vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Thức vô biên xứ: Thức là vô biên.

Sau khi vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Vô sở hữu xứ: Không có sự vật gì tất cả.

Sau khi vượt qua một cách hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Sau khi vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Diệt thọ tưởng định.

Như vậy là chín pháp cần được thắng tri.

Thế nào là chín pháp cần được chứng ngộ?

Chín thứ đệ diệt:

Thành tựu Sơ Thiền, các dục tưởng bị đoạn diệt.

Thành tựu đệ Nhị Thiền, các tầm tứ bị đoạn diệt.

Thành tựu đệ Tam Thiền, hỷ bị đoạn diệt.

Thành tựu đệ Tứ Thiền, hơi thở vào hơi thở ra bị đoạn diệt.

Thành tựu hư không vô biên xứ, sắc tưởng bị đoạn diệt.

Thành tựu Thức vô biên xứ, hư không vô biên xứ tưởng bị đoạn diệt.

Thành tựu Vô hữu xứ, Thức vô biên xứ tưởng bị đoạn diệt.

Thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ tưởng bị đoạn diệt.

Thành tựu Diệt thọ tưởng định, các tưởng và các thọ bị đoạn diệt.

Như vậy là chín pháp cần được chứng ngộ.

Như vậy là chín mươi pháp này là chân, thực, như thị, không phải không như thị, không phải sai khác, được Như Lai giác ngộ, Chánh Đẳng Chánh Giác.

***