Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Tứ đồng Tử Tam Muội

PHẬT THUYẾT KINH

TỨ ĐỒNG TỬ TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
 

PHẦN SÁU
 

Nếu thiện nam hay thiện nữ, các ngoại đạo Ba Lợi Đà, Sa Môn, Bà La Môn, Vua, Đại Thần, Quốc Sư, binh tướng, thuộc quan khác, trưởng giả và cư sĩ. Từ các loài chỉ có hình tướng, thậm chí đến loài lục súc voi ngựa, thú chạy, chim bay, nếu chúng thấy ông đều được thanh tịnh.

Tất cả cây cối, cỏ thuốc, lúa má, hoa quả đều xoay về phía ông cúi mình cung kính. Tất cả lầu đài, cung điện, nhà cửa, thuyền bè, xe cộ nhờ sức oai quang của ông nên các loại ấy bị che lấp. Tất cả đều cúi mình hướng về ông.

Này A Nan! Ví như Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khi mới chứng bồ đề vô thượng đắc giải thoát vô ngại thì tất cả cây cối, cỏ thuốc, lúa mạ, hoa quả, nói tóm lược cả người, phi nhân v.v… đều vây quanh Đạo Tràng Bồ Đề và xoay về Đức Như Lai cúi mình cung kính.

Này A Nan! Nay ông nhờ sức nhân duyên cúi mình cung kính chắp tay bên Thiện Nam Vô Phan Duyên, mà kiếp sau ở chỗ nào cũng đều có oai nghi đầy đủ. Người, phi nhân v.v… tất cả lúa mạ, cây cối cỏ thuốc đều xoay về ông mà cúi mình cung kính.

Này A Nan! Nếu có thiện nam thiện nữ, sau khi Như Lai nhập Niết Bàn hoặc ngay lúc còn hiện tại mà thoáng nghe vị Trang Nghiêm này nói về bản pháp thọ ký, cho đến chắp tay nhất niệm, hoặc đem tâm chân thật tư duy ý nghĩa đó rồi một lòng tin tưởng thì vẫn được phước báo như ta đã nói ở trên.

Như vậy, này A Nan! Đời sau ít chúng sinh được nghe pháp này, cũng ít người nghe danh từ của bản pháp này.

Nếu ai nghe một lần rồi muốn nghe lại còn không thể được, huống chi sau khi nghe có lòng tin chân chánh, cung kính tôn trọng, không phỉ báng diệt trừ các nghi ngờ, tư duy tu tập, phát sinh thật tướng. Với những thiện nam, thiện nữ đó, ta dùng Phật nhãn đều thấy rõ ràng, lại dùng Phật trí biết hết thảy. Những người ấy chẳng phải chỉ tu hành cúng dường một Đức Phật mà cũng không chỉ trồng các căn lành với một Đức Phật.

Này A Nan! Nay chúng hội ở trước mặt ta, tất cả đại chúng nam, nữ, Trời người đều muốn thấy Đức Như Lai Thế Tôn nhập Niết Bàn.

Này A Nan! Những người như vậy vào đời sau, khi Bồ Tát Di Lặc mới chứng bồ đề vô thượng, thọ nhận ngôi vị trí tuệ cho đến sau này ngồi Đạo Tràng Bồ Đề, họ lại thiết lập cúng dường tôn trọng cung kính Như Lai. Như vậy lần lượt đến khi Đức Thế Tôn Di Lặc nhập Niết Bàn họ cũng được thấy.

Khi trở về đứng bên Đức Như Lai, họ cũng thấy bốn Đồng Tử này nghe pháp, như nay ở trước ta họ được nghe thấy Thiện Nam Vô Phan Duyên, nghe tiếng đại pháp thắng diệu từ trong lỗ chân lông. Sau khi nghe xong, họ rất hoan hỷ.

Này A Nan! Cho nên, nay ông được nghe nói nghĩa lý vi diệu như vậy thì hãy cúi mình chắp tay tịnh tâm kính tín.

Vì sao?

Vì nhờ nhân duyên nghiệp thiện tịnh tâm kính tín ấy mà dù ông ở đâu, tất cả chúng sinh nơi hàng Trời, Người đều cung kính cúng dường tôn trọng, khen ngợi cúi mình đứng bên ông. Cho đến sau khi ông Niết Bàn thì Chư Thiên, người xây tháp cúng dường Xá Lợi ông.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A Ni Lâu Đà: Ông thấy cõi trên có bốn mươi ức chúng Trời người đều đứng chắp tay cúi mình nghe Kinh Điển này không?

A Ni Lâu Đà thưa: Bạch Thế Tôn! Con có thấy.

Bạch Thiện Thệ! Con có thấy.

Phật bảo A Ni Lâu Đà: Các hàng Trời, Người nhờ nghe pháp này có lòng tin cung kính chắp tay tạo căn lành thì qua A tăng kỳ kiếp đời vị lai sẽ không đọa vào đường ác, hoặc Cõi Trời, cõi người.

Sau khi luân chuyển hằng sa đời thì mỗi đời đều làm Chuyển Luân Vương, sinh ra nơi nào cũng đều được gặp Chư Phật, được thành tựu căn lành với Chư Phật. Sau khi căn lành được thành tựu cho đến khi chứng đắc bồ đề vô thượng đồng một hiệu là Nhất Thiết Chúng Loại Ủ Thân Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.

Đức Phật vừa nói xong, trong đại chúng có các Lực sĩ và quyến thuộc gồm năm trăm người. Tên của các vị ấy là Lực Sĩ Ngộ Lạc, Lực Sĩ Đầu Câu Da, Lực Sĩ Đại Lực, Lực Sĩ Thiên Oai, Lực Sĩ Thắng Thiên, Lực Sĩ Úc Can Tha, Lực Sĩ Vô Úy, Lực Sĩ Bà Tẩu, Lực Sĩ Chân Thật, Lực Sĩ Ưu Đa La, Lực Sĩ Bà Thọ, Lực Sĩ Nhất Thiết Nhẫn v.v… mỗi Lực sĩ như vậy đều có năm trăm quyến thuộc vây quanh, tập hợp trong chúng ấy để cúng dường.

Ai nấy đều hướng về Đức Như Lai cúi mình chắp tay buồn khóc, kêu thương, nước mắt đầm đìa và bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chúng con nay chắp tay cung kính muốn cúng dường Như Lai Thế Tôn và Đồng Tử Bồ Tát Vô Phan Duyên cùng vô lượng Đại Bồ Tát khác cho đến hết thảy đại đức Thanh Văn về pháp môn thanh tịnh cú nghĩa vi diệu của Kinh này.

Bạch Thế Tôn! Chúng con đem một niệm căn lành này xin hồi hướng lên ngôi bồ đề vô thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền mỉm cười, theo thường pháp của Chư Phật, khi mỉm cười thì trong miệng phóng ra những luồng ánh sáng đủ màu vi diệu, đó là màu xanh, vàng, đỏ, trắng, màu vàng ròng, pha lê. Ánh sáng này tỏa sáng khắp vô lượng vô biên Thế Giới. Ánh sáng ấy chiếu tới cung Trời Phạm Thiên rồi trở lại bao quanh Đức Thế Tôn ba vòng và cuối cùng vào đỉnh đầu Phật.

Thấy vậy, tuệ mạng A Nan dùng kệ hỏi Phật:

Đèn Trời vì sao tỏa

Như ánh sáng lớn này?

Xin giải nghi cho con

Và các chúng sinh khác.

Phật bảo A Nan: Ông có thấy không?

Lực sĩ này nhất tâm một chỗ chắp tay hướng về ta và Đồng Tử Bồ Tát Vô Phan Duyên, đồng thời đối với Kinh này chí tâm tịnh tín lại còn phát tâm bồ đề vô thượng.

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật bảo A Nan: Từ nay trở về sau qua A tăng kỳ kiếp, Lực sĩ này không đọa vào các đường ác. Sau đó chứng đắc bồ đề vô thượng.

Muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

A Nan ông thấy không

Chúng Lực sĩ tập hợp

Sinh lòng đại hoan hỷ

Cúi mình hướng về ta.

Hoan hỷ nói như vậy

Sẽ đắc đạo vô thượng

Các lực sĩ đại trí

Họ đã cúng dường ta.

Và với Vô Phan Duyên

Các Thanh Văn của ta

Có lòng tôn trọng pháp

Nên chắp tay như thế.

Qua A tăng kỳ kiếp

Họ không đọa đường ác

Nhờ nghiệp chắp tay này

Cúi mình hướng về ta.

Giả sử nói một kiếp

Hoặc vô số ức kiếp

Họ sẽ được chứng đạo

Thành tựu các Cõi Phật.

Hành những hạnh tối thắng

Không thể nào lường được

Trải qua vô số kiếp

Suy nghĩ không thể biết.

A Nan! Không lâu nữa

Vào cuối đêm hôm nay

Ta từ biệt các ông

Thấy nhau đây lần cuối.

Phật bảo A Nan: Này A Nan! Ông thấy từ phương Bắc có ánh sáng màu vàng ròng chiếu sáng rực rỡ tới đây không?

Oai quang ấy sáng che lấp tất cả cây cối, lúa mạ, cỏ thuốc, hoa quả, núi hang, đồi gò, lâu đài, cung điện, nhà cửa, xe cộ, người, phi nhân, nơi đó chiếu lên hư không biến thành một màu vàng ròng.

A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật lại bảo A Nan: Ông thấy từ phương Bắc có chiếc xe bằng vàng Diêm phù đàn đang đến đây không?

Giữa xe ấy có Đồng Tử ngồi kiết già, oai quang tối thắng công đức vời vợi.

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con đã thấy.

Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.

Phật lại bảo A Nan: Này A Nan! Từ cõi này về phương Bắc sáu mươi bốn ngàn câu chi có một Cõi Phật tên Câu Tô Ma Bạt Kỳ. Đức Thế Tôn cõi ấy hiệu là Bồ Đề Phần Chuyển Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Cõi Phật đó có Đồng Tử Bồ Tát tên Hoa Phu Thần Thông Đức, sau khi xả thân ở đó, lại sinh vào nơi đây.

Này A Nan! Thế Giới ấy phát ra các âm thanh pháp gọi là âm thanh bồ đề phần. Chúng sinh cõi đó có Thanh Văn đã thành tựu căn lành.

Này A Nan! Như Lai Bồ Đề Phần Chuyển từ khi chứng đắc bồ đề vô thượng đến nay đã sáu mươi bốn ngàn kiếp và hiện đang nói pháp.

Này A Nan! Như Lai ấy không có Thanh Văn, chỉ có chúng Bồ Tát.

Này A Nan! Giống như Quán Đảnh Chuyển Luân Vương có rất nhiều con. Các người con ấy, có người làm đại thần, có người làm Quốc Sư, làm Vua các nước nhỏ, cũng vậy, Bồ Tát của Phật Như Lai cũng gọi là con, là đại thần. Phật có hai vị Bồ Tát rất thù thắng, còn các Bồ Tát khác chỉ là thị giả và lấy Bồ Tát làm Tăng bảo.

Này A Nan! Tuần tự nơi các Cõi Phật ấy đều là Bồ Tát.

Này A Nan! Cuộc sống nhu cầu của Thế Giới Phật ấy đều đầy đủ sung túc, không thiếu thốn, hoàn toàn không sợ sệt, an ổn diệu lạc, đẹp đẽ vi diệu, dân chúng an lạc. Công đức của Bồ Tát đều tròn đầy và trụ vào các thần thông rất thù thắng, dùng sức tam muội để qua lại, còn những bạn bè trí tuệ cũng rất thù thắng, tạng trí tròn đầy, thường tu tập tâm bồ đề, làm luận giảng pháp nhất thiết trí đều chứng đắc vô thượng vô biên hết thảy pháp thâm sâu của Bồ Tát.

Này A Nan! Các Bồ Tát như thế có khắp cả Thế Giới ấy.

Thiện Nam! Đại Bồ Tát Hoa Phu Thần Thông Đức từ Cõi Phật đó sinh trong thành Tỳ Xá Ly cõi Diêm Phù Đề.

Thiện Nam đó đang hiện thần thông để đến đây mục đích muốn đảnh lễ sát chân Phật và muốn thấy Đức Như Lai Thế Tôn nhập đại Niết Bàn.

Này A Nan! Ánh sáng lớn này hiện ra là do sức oai thần của Như Lai ấy.

Này A Nan! Bảy xe bằng vàng Diêm phù đàn là của Như Lai ấy. Nhờ bảy phần trợ đạo bồ đề nên hóa hiện ra như vậy.

Này A Nan! Diêm Phù Đề này có vô lượng ức chúng Trời người đã cùng Đồng Tử này xưa kia đến nay từng trồng căn lành. Bồ Tát này cũng sinh vào cõi Diêm Phù Đề khiến cho chúng sinh ở đó rất hoan hỷ vui mừng khôn xiết.

Lại có chúng sinh được lậu tận, có chúng sinh đắc Học địa, có chúng sinh đắc Vô học địa, có chúng sinh chưa phát tâm bồ đề thì làm cho phát tâm bồ đề, có chúng sinh với bản tánh được đắc tâm nhẫn bất thoái.

Này A Nan! Đồng Tử này ngồi kiết già trong xe phát ra ánh sáng. Ánh sáng đó là do oai lực thần thông của Như Lai hiện ra. Từ ánh sáng này phát sinh ra sáu chiếc xe kia.

A Nan! Ông thấy nhờ sức oai thần của Như Lai mà Đại Bồ Tát Hoa Phu Thần Thông Đức ở đây hiện đủ các thần thông. Oai lực của ánh sáng này làm lợi ích lớn cho vô lượng vô biên chúng sinh trong Thế Giới, nghĩa là dùng chánh pháp để giáo hóa lẫn nhau.

Khi ấy, Đồng Tử đều hòa hợp hoan hỷ. Lại có vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh vây quanh đi theo. Trong khoảng sát na mưa đủ loại hoa Trời, các chúng sinh ấy đến chỗ Đức Phật đảnh lễ dưới chân.

Đức Thế Tôn bảo Tuệ mạng A Nan: Này A Nan! Những gì Như Lai có thể làm cho chúng sinh thì các Đại Bồ Tát trưởng tử của Như Lai cũng nên làm. Nay đây, ta đã làm hoàn tất. Ta đã làm lợi ích cho chúng sinh xong.

A Nan! Đại Bồ Tát Hoa Phu Thần Thông Đức này ngồi oai nghiêm rực rỡ trong xe bằng vàng Diêm phù đàn đó hiện ra các thần thông như vậy, giáo hóa na do tha chúng sinh chứng quả A La Hán.

Lại dạy cho ức ức chúng sinh được đắc học địa, có trăm ức na do tha chúng sinh có lòng tin thanh tịnh với Tam Bảo và thọ trì năm giới, có bảy trăm ức na do tha Chư Thiên được trụ vào địa bất thoái chuyển, chắc chắn sẽ đắc bồ đề vô thượng, lại có bảy trăm ức chúng sinh trụ pháp nhẫn vô sinh, có vô lượng na do tha chúng sinh được dự pháp hội đầu tiên của Thế Tôn Di Lặc.

Bấy giờ, Tuệ mạng A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng sinh mà trụ thêm một kiếp hay ít hơn một kiếp nữa.

Vì sao?

Vì nếu Thế Tôn còn trụ ở đời thì đại sự luôn hiện ra, để các Đại Sĩ chân thiện thường xuyên qua lại trong Diêm Phù Đề. Chúng sinh chúng con còn bấy nhiêu thời gian ở đây chiêm ngưỡng các Đại Bồ Tát và phụng thờ cúng dường.

Lại trong thời gian ấy, Kinh Điển sẽ được lưu hành rộng rãi, thời gian đó chúng con còn được nghe ý nghĩa pháp Phật. Còn bao nhiêu thời gian, chúng con được thấy Thế Tôn và các Đại Sĩ hiện hóa đủ sức thần thông.

Nếu ngày nay Thế Tôn không trụ ở đời mà nhập Niết Bàn, thì sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng sinh chúng con sẽ xa lìa ba việc. Đó là không thấy Phật, không được nghe chánh pháp và không thấy tâm từ ái rộng rãi của các bậc Đại Sĩ, cũng sẽ không còn được phụng thờ cúng dường. Chúng con sẽ bị những mất mát to lớn như vậy.

Sau khi nói xong, tuệ mạng A Nan buồn thảm, kêu gào thảm thiết, nước mắt đầm đìa, quằn quại trên đất giống như cây bị chặt ngã và lại xướng: Phật sao sớm xa lìa chúng con. Các thiện tri thức cũng lại sớm biệt ly chúng con.

Khi ấy, trong chúng có Đại Bồ Tát tên Thiện Tư Nghĩa dùng kệ nói với A Nan:

A Nan chớ đau buồn

Các hành đều vô thường

Pháp đời muốn thường còn

Điều này không thể có.

Nếu nói có các hành

Lời ấy không thể có

Các pháp đều trống không

Cớ sao ông sầu khổ.

Các trí đều là không

Trí Phật cũng là không

Phật còn không thể đắc

Ông âu sầu làm gì.

Ông đừng có phân biệt

Người trí lìa phân biệt

Các hữu như hư không

Như quáng nắng tưởng nước.

Như thầy ảo thuật hóa

Voi, ngựa, xe vân vân…

Vườn rừng các xóm làng

Cây cối các hoa quả.

Thế đế cũng như vậy

Như huyễn hóa không thật.

Chư Phật và Thanh Văn

Cũng vậy có khác gì.

Để trả lời Bồ Tát Thiện Tư Nghĩa, A Nan dùng kệ nói:

Đúng như điều ông nói

Các pháp không có tướng

Thắng pháp tối thắng này

Nay tôi nghe lần cuối.

Làm sao đến Xá Vệ

Họ hỏi tôi nói sao!

A Nan! Phật ở đâu

Mắt Trời khi nào đến?

Xưa tôi tới nơi này

Thường thấy Phật Thế Tôn

Nay đến thấy trống không

Đại trí tôi ở đâu.

***