Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Bốn - Thiên Sáu Sứ - Chương Bốn - Tương ưng Jambukhadaka
PHẬT THUYẾT
KINH TƯƠNG ƯNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP BỐN
THIÊN SÁU SỨ
CHƯƠNG BỐN
TƯƠNG ƯNG JAMBUKHÀDAKA
PHẦN MỘT
NIBBÀNA NIẾT BÀN
Một thời, Tôn Giả Sàriputta trú ở giữa dân chúng Magadha Ma Kiệt Đà, làng Nàlaka. Rồi du sĩ Jambukhàdaka đi đến Tôn Giả Sàriputta.
Sau khi đến, nói lên với Tôn Giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi một bên, du sĩ Jambukhàdaka nói với Tôn Giả Sàriputta:
Niết Bàn, Niết Bàn, này Hiền Giả Sàriputta, như vậy được nói đến.
Này Hiền Giả, thế nào là Niết Bàn?
Này Hiền Giả, đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, đây gọi là Niết Bàn.
Này Hiền Giả, có con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến chứng đắc Niết Bàn?
Này Hiền Giả, có con đường có đạo lộ đưa đến chứng đắc Niết Bàn ấy.
Này Hiền Giả, con đường ấy là gì, đạo lộ ấy là gì đưa đến chứng đắc Niết Bàn?
Này Hiền Giả, đây là con đường Thánh đạo tám ngành đưa đến chứng đắc Niết Bàn ấy, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Này Hiền Giả, đây là con đường, đây là đạo lộ đưa đến chứng đắc Niết Bàn ấy.
Này Hiền Giả, hiền thiện là con đường, hiền thiện là đạo lộ đưa đến chứng đắc Niết Bàn. Thật là vừa đủ, này Hiền Giả, để không phóng dật.
***