Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh ương Quật Ma La

PHẬT THUYẾT

KINH ƯƠNG QUẬT MA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
 

PHẦN MƯỜI BA
 

Lúc ấy Ương Quật Ma La bạch Phật: Thế Tôn, chúng sanh do không biết trung đạo, nên vọng tưởng nói cái khác là trung đạo.

Phật bảo Ương Quật Ma La: Có ít chúng sanh tin tưởng khi nghe Kinh này, trong vị lai chúng sanh phần nhiều bài báng Kinh này.

Ương Quật Ma La bạch Phật: Xin Thế Tôn cho biết ở đâu và có bao nhiêu chúng sanh hủy báng Kinh này, có bao nhiêu nhất xiển đề?

Theo cách nào có thể rộng vì chúng sanh mà an ủi giảng nói, cầu mong Như Lai thương xót giảng cho.

Phật bảo Ương Quật Ma La: Trong đời vị lai, chính nơi trung tâm nước sẽ có chín mươi tám trăm ngàn ức chúng sanh phỉ báng Kinh này, bảy mươi ức chúng sanh làm nhất xiển đề. Phương Đông có chín mươi tám ngàn ức chúng sanh hủy báng Kinh ấy, sáu mươi ức chúng sanh làm nhất xiển đề.

Phương Tây có chín mươi tám trăm ức chúng sanh phỉ báng Kinh này, năm mươi ức chúng sanh làm nhất xiển đề. Phương Nam có chín mươi tám ức chúng sanh hủy báng Kinh này, bốn mươi ức chúng sanh làm nhất xiển đề. Trong nước Kế Tân còn lại giáo pháp của ta, nước Bà Lâu Ca Xa còn tên không bị diệt, nước Tần Đà Sơn cũng như vậy.

Tỳ Kheo ở nước Kế Tân một phần tư thực hành pháp Ma Ha Diễn, một phần tư thích pháp Ma Ha Diễn, giảng thuyết Ma Ha Diễn. Phương Nam sẽ có người hành đạo kiên cố, hành trì hạnh Như Lai, thoát ly tám việc lớn, thuyết về Như Lai tạng thường hằng bất biến của Như Lai. Đại Bồ Tát Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều hành trì đạo một cách kiên cố, gánh vác chánh pháp của ta.

Khi ấy Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Thế Tôn, lạ thay Phật Pháp sẽ trụ ở phương Nam!

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Đúng vậy! Đúng vậy! Pháp của ta sẽ trụ ở phương Nam một thời gian ngắn.

Như hàng Đại Bồ Tát khổ hạnh các ông không tiếc thân mạng dốc cứu giúp cho tất cả chúng sanh, thuyết giảng về Như Lai tạng thường hằng bất biến của Như Lai. Như tất cả Chư Phật đều không ưa thích sanh ra ở Thế Giới này để gánh vác việc hóa độ vô lượng chúng sanh trong ba ngàn Thế Giới, chỉ riêng Ta là dốc ở đây để độ thoát họ.

Đại Bồ Tát của Ta, khi chánh pháp sắp diệt ngoài tám mươi năm, bấy giờ tỏ ra không thích việc giữ gìn chánh pháp cũng như vậy. Này Văn Thù Sư Lợi, các ông, khi chánh pháp sắp diệt ngoài tám mươi năm, vào lúc đó phải dốc gánh vác chánh pháp trong tất cả cõi Diêm Phù Đề và tất cả các châu, không hề tiếc thân mạng để diễn thuyết về Như Lai tạng thường hằng bất biến của Như Lai.

Chúng sanh có kẻ tin người không tin nên các Bồ Tát ấy suy nghĩ: Nếu cắt chia thân thể ta làm thành nhiều phần, do đó ta sẽ được thân tướng thường trú. Này Văn Thù Sư Lợi, các ông,… vô lượng Đại Bồ Tát ở nơi phương Nam ấy sẽ gánh vác chánh pháp là công việc khó khăn bậc nhất.

Thế nên, Ta thường tán thán sự Thuyết Pháp cuối cùng ở phương Nam là do diệu lực của uy đức nơi các Bồ Tát ấy. Tất cả cõi Diêm Phù Đề và tất cả các châu, chúng sanh kia nghe tên nên hướng về, hoặc nhân đó mà sanh hổ thẹn, hoặc nhân đó sanh ra sợ hãi.

Như có vị Vua được nghe pháp của Vua khác mà tự xử trị nước mình. Nước Kế Tân và thành Già Lâu Ca Xa vì biết hổ thẹn, sợ hãi nên thuyết giảng tạng bí mật của Ma Ha Diễn, cũng như vậy, nhưng lại không thuyết Như Lai tạng thường hằng bất biến của Như Lai.

Này Văn Thù Sư Lợi, ví như đốt lửa vào cỏ ở giữa, chỉ cháy bên trong không cháy bên ngoài. Đạo kiên cố bị diệt ở nơi ta sanh, nhưng pháp còn trú ở biên giới phương Nam. Các Bồ Tát ở đó sẽ dốc gánh vác chánh pháp cũng như vậy, nên biết trong đó luôn có Như Lai.

Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân cùng các quyến thuộc ở Cõi Trời Tam thập tam, đến lạy sát chân Phật, cúng dường lớn, bạch Phật: Thế Tôn, chúng con sẽ cùng nhau hộ trì Kinh này, mong được giao phó. Cầu mong Ngài thương xót tất cả chúng sanh mà nói tên Kinh này.

Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca, Kinh này tên là Ương Quật Ma La, hãy thọ trì như vậy. Này Kiều Thi Ca, Kinh này khó gặp như hoa Ưu Đàm Bát.

Khi ấy vị trưởng tử của Đế Thích tên A tỳ mạn nhuyễn, đảnh lễ sát chân Phật bạch:

Như khi phụ vương của con chiến đấu cùng A Tu La, bảo người đánh xe: Ngươi hãy nghiêm chỉnh hàng phục quân A Tu La.

Người đánh xe thưa: Xin Ngài chớ lo buồn, con phải chết trước, sau đó mới đến Vua, nay phải hy sinh thân mạng kiên chí quyết chiến, người khác cũng phải xả thân tận lực.

Cũng vậy, thưa Thế Tôn, trong đời vị lai khi chánh pháp sắp diệt còn tám mươi năm, Đại Bồ Tát thuyết Như Lai tạng thường hằng bất biến của Như Lai, lại suy nghĩ: Khi ta thuyết pháp có nhiều chúng sanh không thể tiếp thu, vậy ta nên không nói. Lúc đó, đừng để cho các hàng thiện nam tử nghe các khó khăn như thế mà sanh tâm thoái chuyển.

Nên biết, phải nghiêm chỉnh điều khiển chiếc xe pháp như là nói rộng trong thế gian về Như Lai tạng tịch tịnh thường hằng bất biến của Như Lai. Lúc các thiện nam tử kia thuyết giảng về Như Lai tạng thường hằng bất biến của Như Lai, thì vào lúc ấy, ta sẽ làm Tỳ Kheo xả bỏ thân mạng để hộ trì.

Bấy giờ có nhiều chúng nam nữ Đế Thích Tử và các Chư Thiên khác, cùng đảnh lễ dưới chân Phật, phát thệ nguyện: Con sẽ làm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, xả bỏ thân mạng để hộ trì đạo pháp.

Đức Phật tán thán: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử, các người đều là người cầu chánh pháp. Ta cũng vì những người ưa thích chánh pháp mà luôn che chở ủng hộ. Ta cũng thường đi trước họ như người ngự xe khéo. Các ngươi cần phải kiên quyết biết ân, phải giảng giải rộng về sự thường hằng, sự tịch tịnh, sự không thay đổi, nơi Như Lai tạng của Như Lai.

Khi ấy Vua Ba Tư Nặc tập hợp bốn loại binh, bảo các đại thần: Nay có kẻ như La Sát giết hại đến chín trăm chín mươi chín người, dùng ngón tay làm vòng đeo, lấy máu bôi trên thân, hùng mạnh nhanh nhẹn, tung hoành bạo ác ở xứ này.

Hiện, hắn cách thành chừng bốn mươi khoảng tiếng bò rống, có thể hại ta và quần thần để bổ sung cho đủ số lượng người bị giết. Vậy phải cùng đi diệt trừ tên quỷ sát hại. Tất cả nam nữ trong thành muốn bảo toàn, đều không nên ra ngoài. Tất cả cầm thú nghe ác danh của nó đều không đi đâu được.

Các ngươi cần phải tuyên lệnh này khắp nơi: Vua Ba Tư Nặc đang dẫn bốn loại binh dốc trừ diệt La Sát Ương Quật Ma La kia. Tất cả đều phải mang binh khí đến. Người nào cùng nó tận lực chiến đấu, bị thương hay không, theo công đều được ban thưởng voi, ngựa, trân bảo, thành ấp, đất ruộng, tùy theo nhu cầu đều được ban cho.

Nghe tên kẻ ác ấy, mọi người đều kinh sợ, cho nên dù tuyên lệnh như vậy, nhưng không ai dám hưởng ứng theo. Chỉ có tả hữu của Vua, không được tự do nên phải chịu phục tùng tuân theo lệnh Vua, còn các phi hậu thì kêu khóc, can gián, thà chịu mất ngôi Vua, xin Nhà Vua đừng thân chinh.

Nhà Vua liền triệu bốc sư đến để hỏi việc lành dữ thế nào, nay có nên chế ngự Ương Quật Ma La không?

Thầy xem quẻ đều nói, hắn sẽ bị diệt.

Tuy nghe nói như vậy, nhưng Vua vẫn không tin, dẫn bốn loại binh, đến gặp Đức Phật, lạy sát dưới chân Ngài, có dáng sợ hãi, trán đổ mồ hôi, ngồi qua một bên.

Với Nhất thiết trí, Đức Thế Tôn biết tất cả, nhưng vẫn hỏi: Hôm nay, vì sao Đại Vương ra vẻ mệt nhọc đổ mồ hôi như thế?

Nhà Vua bạch Phật: Hiện nay, có La Sát tên Ương Quật Ma La Sát hại nhân dân thiếu một người nữa là đủ ngàn người, lấy ngón tay làm vòng đeo, dùng máu thoa thân, sợ nó vẫn ngoan cố chiến đấu với con, nhân dân cả nước đều sợ hãi, đóng cửa không dám ra ngoài, bỏ phế các công việc, tất cả cầm thú đều không dám đến gần. Nên con đem bốn loại binh để trừ diệt nó.

Đức Phật bảo Nhà Vua: Nay Đại Vương muốn trừ diệt kẻ ấy phải không?

Hiện nay con chỉ hoàn toàn tin theo Phật.

Đức Phật bảo Nhà Vua: Nếu Ương Quật Ma La đến đây, Đại Vương phải làm thế nào?

Khi ấy bốn bộ binh đều kinh sợ, riêng Vua không sợ vì nhờ vào sức uy đức của Phật.

Nhà Vua bạch Phật: Nếu nó đến đây thật không gì bằng.

Đức Thế Tôn chỉ cho Vua: Đây là thường thắng Ương Quật Ma La! Nhà Vua vừa trông thấy Ương Quật Ma La, liền trố mắt nhìn không chớp, xem kỹ hình dáng Ương Quật mắt đỏ uy hùng, nên tâm Vua kinh hãi dựng tóc gáy, như bị phi nhân bắt giữ, ý chí dũng mãnh hầu như tan mất, rớt cả đao kiếm, từ từ nép vào sát tòa sư tử của Như Lai, nhất tâm chí thành quy y Như Lai, xin Ngài xem chúng con như La Hầu La.

Bốn bộ binh thấy vậy càng thêm sợ hãi, mê loạn nghiêng ngã, chen lấn bỏ chạy.

Đức Thế Tôn bèn phóng hào quang vô úy an ủi chúng sanh, chiếu đến chỗ các chúng sanh ấy làm cho họ được an lạc.

Bấy giờ quyến thuộc trong ngoài của Vua Ba Tư Nặc và nhân dân trong thành, đều suy nghĩ: Nay Ương Quật Ma La đã bị Đức Thế Tôn hàng phục.

Vua Ba Tư Nặc tán thán: Lạ thay Thế Tôn! Ngài thật là Bậc Điều Ngự đệ nhất, thật là Bậc thầy vô thượng của Trời, Người. Kẻ hung bạo gây nghiệp ác to lớn như vậy, mà Ngài vẫn có cách đưa họ vào trong chánh pháp.

Thế Tôn nói kệ tán thán:

Ai trước đây phóng dật

Sau từ bỏ không làm

Người ấy chiếu sáng đời

Như trăng thoát mây che.

Như Đại Bồ Tát nào trước biểu hiện phóng dật, sau biểu hiện công đức, vị ấy chiếu sáng thế gian như trăng thoát mây che, độ vô lượng chúng sanh, biểu hiện công đức của Như Lai. Này Đại Vương, nên biết người ấy không phải là kẻ ác, chính là Bồ Tát với phương tiện thiện xảo vậy.

Nhà Vua bạch Phật: Vì ý nghĩa gì mà nói không phải là người ác, trước làm nhục vợ của thầy, vâng lệnh thầy ác, hành theo loài Tỳ Xá Già.

Đức Phật bảo Vua: Vị ấy không hề làm nhục vợ thầy, ông kia cũng không phải là thầy. Thị hiện làm thầy và vợ có sắc là để thay đổi tâm tính của vị ấy, vì thích học tập theo pháp của thầy, cho là thường thanh tịnh.

Đại Vương nên biết, đây thật là đặc biệt, ví như rồng voi xung kích, thì đám ngựa, lừa không thể chống đỡ được. Như vậy, này Đại Vương, Như Lai là Bậc Đại Long Tượng Vương trong loài người, lời nói ẩn dụ bí mật nói ra, hàng Thanh Văn, Duyên Giác đều không thể nhận được, chỉ có Phật và Phật mới có thể nhận ra.

Này Đại Vương, về phương Nam cách đây sáu mươi hằng hà sa cõi, có nước tên Nhất Thiết Bảo Trang Nghiêm, Phật Hiệu là Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác đang giáo hóa ở đời, không có Thanh Văn, Duyên Giác thừa, chỉ thuần nhất Đại Thừa, không có tên thừa nào khác.

Chúng sanh ở cõi đó không có già, bệnh, khổ không vừa ý, hoàn toàn an lạc, sống lâu vô lượng, ánh sáng vô lượng thuần một sắc đẹp, tất cả thế gian không thể ví dụ, thế nên nước tên là Nhất Thiết Bảo Trang Nghiêm.

Phật Hiệu là Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn. Đại Vương hãy tùy hỉ, chắp tay cung kính, Đức Như Lai đó nào phải là ai khác. Ương Quật Ma La chính là vị Phật ấy. Cảnh giới của Chư Phật là bất khả tư nghị.

Lúc ấy Vua Ba Tư Nặc bảo các thầy chiêm tinh: Các ngươi đều nói dối, hãy mau mau đi thật xa, không được nói dối nữa.

Bấy giờ Chư Thiên, người, các Rồng, Thần, Thanh Văn, Bồ Tát, Vua Ba Tư Nặc, tất cả nhân dân trong thành phố xóm làng, nương theo uy thần của Phật, đều tập hợp lại, cung kính lạy sát chân Ương Quật Ma La, nhất tâm đồng thanh nói kệ khen:

Nam Mô Như Lai vô biên thân

Nam Mô phương tiện Ương Quật Ma

Con đang đảnh lễ dưới chân Ngài

Sám hối dưới chân Ngài mềm mại

Con xin sám hối Đức Như Lai

Ương Quật Ma La thân nhị sanh

Vì chúng con nên đến nơi này

Hiện sắc tướng Phật sáng rực rỡ

Chiếu các chúng sanh chịu nghe nói

Ta thường sám tạ vô lượng thân

Phật làm chỗ nương kẻ bơ vơ

Làm thân thuộc kẻ không thân quyến

Lạ thay! Hai Phật hiện trong đời

Chưa từng có pháp này trong đời

Như hoa sen nở trong lửa cháy

Thế gian ít khi thấy hai Phật.

Đức Thế Tôn bảo Vua Ba Tư Nặc: Về phương Bắc, cách đây bốn mươi hai hằng hà sa cõi, có nước tên Thường Hỷ, Phật Hiệu Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, đang giáo hóa ở thế gian.

Nước ấy không có Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ thuần nhất Đại Thừa, không có thừa khác, cũng không có các tên về già, bệnh, đau khổ. Hoàn toàn an lạc, sống lâu vô cùng, ánh sáng vô lượng, không thể ví dụ, thế nên nước có tên là Thường Hỷ, Phật Hiệu Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác.

Nhà Vua nên tùy hỷ chắp tay cung kính. Đức Như Lai ấy nào phải là ai khác, chính là Văn Thù Sư Lợi vậy. Chúng sanh nào hướng đến Ương Quật Ma La, Văn Thù Sư Lợi làm lễ, hay nghe danh hiệu hai vị này, thấy nước Hoan hỷ như thấy nhà mình.

Nhờ nghe tên các vị ấy nên thường ngăn chặn nơi bốn đường ác, hoặc vì vui thích hoặc vì tùy thuận người khác, hoặc vì danh lợi ở đây hay ngoại đạo, hoặc phạm trọng cấm năm tội vô gián, cũng ngăn được bốn đường ác. thiện nam tử, Thiện Nữ Nhân nào được danh hiệu của hai vị kia hộ trì, ngay trong đời này hay qua đời sau, đều được hộ trì.

Khi gặp phải nơi hoang vắng với các hiểm nạn đe dọa, khắp hết mọi nơi chốn có sự khủng bố đều bị tiêu diệt. Chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Tỳ Xá Xà, đều không xâm phạm được.

Đức Thế Tôn nói tiếp với Vua Ba Tư Nặc: Lời dạy của Như Lai có uy đức lớn như vậy, hành động của Bồ Tát có uy đức lớn như vậy, Văn Thù Sư Lợi và Ương Quật Ma La có uy đức lớn như vậy. Đối với hai bậc rồng này nên phát tâm tùy hỷ, từ đấy có thể phát sanh vô lượng hạnh Bồ Tát. Này Đại Vương, Ngài nên cấp dưỡng cho mẹ của Ương Quật Ma La, chớ nên quên.

Ương Quật Ma La mẫu này là người giữ gìn các phương tiện của Ta.

***