Kinh Đại thừa

Bộ Kinh Tập

PHẬT THUYẾT KINH

VÔ CẤU TỊNH QUANG ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Di Đà Sơn, Đời Đường
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời Đức Phật ngự trong Đại Tinh Xá tại thành Ca Tỳ La cùng với chúng Đại Tỳ Kheo, vô lượng người đến dự.

Lại có vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tên các vị ấy là: Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, Chấp Kim Cương Chủ Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát. Nhóm như vậy đều là bậc Thượng Thủ.

Lại có vô lượng hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gia, Người, Phi Nhân … vô lượng đại chúng cung kính vây quanh để nghe nói pháp.

Thời trong thành đó có vị Đại Bà La Môn tên là Kiếp Bỉ La Chiến Trà quy kính ngoại đạo, chẳng tin Phật Pháp.

Có một Thầy tướng giỏi đến bảo rằng: Này Đại Bà La Môn! Bảy ngày sau, ông sẽ chết.

Vị Bà La Môn nghe lời đó xong thời tâm ôm buồn não, kinh khiếp sợ hãi, tác suy tư rằng: Ai có thể cứu Ta?

Ta sẽ nương nhờ ai đây?

Lại tác niệm là: Sa Môn Cồ Đàm xưng là nhất thiết trí, chứng nhất thiết trí. Ta sẽ đến chỗ ông ấy. Nếu ông ấy thật sự là đấng nhất thiết trí ắt sẽ nói lên nỗi buồn sợ của ta.

Tác niệm đó xong, liền đi đến nơi Đức Phật ngự, ở trước Chúng Hội, dáo dác nhìn Đức Như Lai, ý muốn thưa hỏi nhưng vẫn do dự. Thời Đức Thích Ca Như Lai đối với pháp trong ba đời, không có gì không thấy rõ.

Biết tâm niệm của Bà La Môn nên dùng âm thanh hiền từ nhẹ nhàng bảo rằng: Này Đại Bà La Môn! Bảy ngày sau ông phải chết, bị đọa vào nơi đáng sợ là địa ngục A Tỳ.

Từ đây lại vào trong mười sáu địa ngục. Ra khỏi xong lại thọ thân Chiên Đà La, sau khi chết lại sinh làm loài heo, luôn ở trong bùn thối, thường ăn phân dơ bẩn, thọ mệnh lâu dài, phần lớn chịu mọi khổ sở.

Sau đó được làm người nghèo hèn thấp kém, chẳng sạch, hôi thối, hình xấu xa đen gầy khô héo, bị bệnh cùi khiến người chẳng ưa nhìn, cổ họng như cây kim, luôn ăn uống thiếu thốn, bị người đánh đập chịu khổ não lớn.

Khi Bà La Môn nghe lời đó xong thì rất sợ hãi, buồn khóc, lo rầu mau chóng đến nơi Đức Phật ngự, đỉnh lễ hai chân của Phật rồi bạch Phật rằng: Đức Như Lai là đấng cứu tế tất cả chúng sinh. Nay con đã biết lỗi lầm, xin quy mệnh với Đức Thế Tôn. Nguyện xin cứu con thoát khỏi nỗi khổ của địa ngục lớn!

Đức Phật bảo: Này Đại Bà La Môn! Ở con đường Tam Kỳ của thành Ca Tỳ La này có một cái Tháp thờ vị Cổ Phật.

Hiện ở trong đó có Xá Lợi của Như Lai. Tháp ấy đã bị sụp lở hư hoại. Ông nên đến chốn ấy trùng tu sửa chữa với tạo Tướng Luân Đường, chép Đà La Ni rồi để trong ấy tác cúng dường lớn, y theo pháp niệm tụng Thần Chú bảy lần sẽ khiến cho mệnh căn của ông được hoàn phục tăng trưởng, sống lâu. Sau khi chết được sinh về cõi Cực Lạc, ở trăm ngàn kiếp thọ Đại Thắng Lạc.

Tiếp đó lại sinh vào Thế Giới Diệu Hỷ cũng được trăm ngàn kiếp thọ nhận niềm vui như trước. Sau đó lại ở các cung Trời Đâu Suất cũng được trăm ngàn kiếp tiếp tục thọ nhận niềm vui. Sinh ra ở tất cả nơi, thường nhớ túc mệnh, trừ tất cả chướng, diệt tất cả tội, vĩnh viễn lìa hẳn nỗi khổ của nhóm địa ngục, thường thấy Chư Phật, luôn được sự nhiếp hộ của Như Lai.

Này Bà La Môn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Nam Nữ hiền thiện… hoặc có mạng ngắn, hoặc bị nhiều bệnh thì y theo pháp viết chép Đà La Ni Chú, chú vào sợi dây, làm Đàn.

Do Phước này cho nên mệnh tướng đã dứt đó trở lại tăng thêm tuổi thọ. Các bệnh khổ não đều được trừ khỏi. Vĩnh viễn xa lìa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Trên lỗ tai chẳng nghe tiếng địa ngục hướng chi thân phải chịu nhận.

Khi Bà La Môn nghe lời nói này xong thời tâm vui vẻ. Liền muốn đến cái Tháp bị hư hoại từ xưa ấy, y theo giáo tu sửa.

Thời trong Chúng Hội có vị Trừ Cái Chướng Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào là pháp của Đà La Ni ấy để hay sinh trưởng phước đức, căn lành?

Đức Phật bảo: Có Đại Đà La Ni tên là Tối Thắng Vô Cấu Thanh Tịnh Quang Minh Đại Đàn Trường Pháp. Chư Phật dùng pháp này để an ủi chúng sinh. Nếu có người nghe Đà La Ni này sẽ diệt năm tội nghịch, đóng cửa địa ngục. Trừ diệt bợn nhơ của tội tham lam, ganh ghét. Kẻ đoản mệnh khi tiếp chạm vào đều được sống lâu. Các việc tốt lành không có gì không hoàn thành được.

Thời Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nguyện xin Đức Phật nói pháp của Đà La Ni này khiến cho tất cả chúng sinh được trường thọ và trừ tất cả các tội chướng. Xin hãy vì tất cả chúng sinh mà tác Đại Minh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nghe lời thỉnh cầu đó xong, liền ở trên đỉnh đầu phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, cảnh giác khắp tất cả các Như Lai. Xong lại quay về chỗ cũ, nhập vào đỉnh đầu của Phật.

Thời Đức Phật dùng âm thanh Ca Lăng Tần Già hòa nhã thích ý tốt đẹp màu nhiệm mà nói Chú là:

Nam mô táp đá táp đát để tệ tam miểu tam Phật đà câu chi nam bát lợi thú đà, ma nại sa bạc, chất đa, bát lợi để sắt xỉ đá nam nam mô bạc già phạt để, a di đa dụ sát tả, hằng tha yết đát tả Án đát tha yết đa thú đệ a dụ, tỳ du đạt nễ tăng hiệt la, tăng hát la tát bà đát tha yết đa, tỳ lợi gia, bạt lệ na bát lạt để tăng hát la, a dụ tát ma la, tát ma la tát bà đát tha yết đa, tam muội diệm bồ đề, bồ đề bột địa, tỳ bột địa bồ đà dã, bồ đà dã tát bà bá ba, a phạt lạt noa, tỳ thú đệ tỳ yết đa, mạt la, bội diệm tô bột đà, bột đệ hổ lỗ, hổ lỗ, sa ha.

NAMO SAPTA SAPTATIBHYAḤ SAMYAKSAṂBUDDHA KOṬĪNĀṂ.

PARIŚUDDHA MANASA VĀK CITTA PRATIṢṬITĀNĀṂ NAMO BHAGAVATI AMITĀYUṢASYA TATHĀGATASYA.

OṂ TATHĀGATA ŚUDDHE ĀYU VIŚUDDHANI SAṂHĀRA SAṂHĀRA SARVA TATHĀGATA VĪRYA BALA DA PRATISAṂHĀRA ĀYU SMARA SMARA SARVA TATHĀGATA SAMAYAṂ BODHI BODHI BUDDHYA VIBUDDHYA BODHAYA BODHAYA SARVA PĀPA.

AVARAṆA VIŚUDDHE VIGATA MĀRA BHAYAṂ SUBUDDHĀ BUDDHE HURU HURU SVĀHĀ.

Đức Phật bảo Trừ Cái Chướng: Đây là Căn Bản Đà La Ni Chú. Nếu người muốn tác pháp này, nên ở trong tháng, vào ngày tám hoặc ngày mười ba hoặc ngày mười bốn hoặc ngày mười năm nhiễu quanh Tháp Xá Lợi theo bên phải bảy mươi bảy vòng, tụng Đà La Ni này cũng bảy mươi bảy biến. Cần phải làm Đàn, ở trên hộ tịnh, viết chép Chú này đủ bảy mươi bảy bản.

Vì tôn trọng Pháp cho nên đối với người viết chép nên đem hương, hoa, thức ăn uống, áo sạch, tắm rửa, hương xoa bôi, hương xông ướp mà cúng dường. Hoặc bố thí bảy báu, hoặc tùy theo khả năng mà cho.

Nên trì vào Bản Chú rồi để ở trong Tháp, cúng dường Tháp này. Hoặc làm cái Tháp bùn nhỏ, đủ bảy mươi bảy cái, đều đem một Bản để ở trong Tháp rồi làm cúng dường. như pháp làm xong, sinh mệnh muốn dứt sẽ chuyển thành sống lâu.

Thảy đều diệt hết tất cả nghiệp đời trước, các nghiệp trong nẻo ác. Lìa hẳn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Sinh ra ở nơi nào, thường nhớ túc mệnh. Tất cả ước nguyện đều được mãn túc, ắt đã được gieo trồng mầm giống thiện căn nơi bảy mươi bảy ức các Như Lai. Tất cả mọi bệnh với các phiền não đều được tiêu trừ.

Nếu người bị bệnh nặng, mệnh tướng sắp dứt. Nên vì họ làm cái Đàn vuông, ở trên vẽ làm mọi loại hình trang ấy là: Hình bánh xe, hình chày Kim Cương, hình cái loa, hình cây kích, hình chữ Nguyệt, hình hoa sen. Bốn góc vẽ hoa sen, bên trên để cái bình, đem cái bình cứa đầy nước thơm để ở bốn góc. Bày hàng lò hương, thiêu đốt mọi Danh Hương.

Lấy cái bát ngũ sắc chứa đầy mọi thứ thức ăn với Tam Bạch Thực là: Sữa, lạc với cơm gạo tẻ. Lại đem năm cái bát đều chứa đầy hương, hoa, nước, với gảo tẻ để trên Đàn, cúng dường. Mọi loại thức ăn uống chứa đầy một vật khí với nước.

Đặt một cái bình ở chính giữa Đàn. Ở sát bên Đàn, vẽ làm tượng Tỳ Na Dạ Ca Vināyaka và để ngọn đèn trên đỉnh đầu của tượng.

Để người bệnh ấy ngay phía Tây của Đàn, hướng mặt vào Đàn này. Đem một vật khí chứa đầy thức ăn đối trước mặt người bệnh, đặt ở trên Đàn.

Chú Sư cần yếu phải thanh tịnh như pháp. Chú vào người bệnh này bảy mươi bảy biến khiến như người sắp chết, hôn mê bảy ngày để nối tiếp sinh mệnh. Khi thức dậy thì như theo mộng tỉnh.

Nếu có Hộ Tịnh, một ngày riêng một biến tụng niệm Chú này sẽ sống được trăm năm. Khi người đó chết sẽ sinh về cõi Cực Lạc.

Nếu tất cả thời thường niệm tụng, cho đến bồ đề luôn nhớ túc mệnh, lìa hẳn sự chết yểu với các nẻo ác.

Nếu lại có người vì kẻ đã chết, xưng danh tự của họ, chí tâm tụng Chú đủ bảy mươi bảy biến. Nếu vong nhân ấy bị đọa vào nẻo ác thì ngay lúc đó được lìa nỗi khổ của nẻo ác, sinh lên Cõi Trời thọ nhận niềm vui.

Hoặc xưng tên người ấy, y theo pháp viết chép Đà La Ni này đặt trong Tháp Phật, như pháp cúng dường cũng khiến cho vong nhân được lìa nẻo ác sinh ở trên Trời, hoặc lại được sinh vào cung Trời Đâu Suất cho đến bồ đề chẳng rơi vào nẻo ác.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với Tháp Phật này, hoặc nhiễu quanh theo bên phải, hoặc lễ bái, hoặc cúng dường… sẽ được thọ ký nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề mà chẳng thoái chuyển. Tất cả chướng của đời trước túc chướng, tất cả tội nghiệp thảy đều tiêu diệt. Cho đến loài phi điểu chim bay, súc sanh… đi đến bóng ảnh của Tháp sẽ được lìa hẳn súc sanh, nẻo ác.

Nếu có năm tội Vô gián, hoặc ở ngay bóng ảnh của Tháp. Hoặc tiếp chạm Tháp ấy đều được trừ diệt.

Nơi để Tháp này không có các hàng Tà Mỵ, Dạ Xoa, La Sát, Phú Đan Na, Tỳ Xá Xà … thú ác, rồng ác, trùng độc, cỏ độc. Cũng không có Võng Lượng, các quỷ thần ác, loài cướp đoạt tinh khí. Cũng không có đao binh, nước, lửa, sương mù, mưa đá, đói khát, chết đột ngột, mộng ác, việc khổ não chẳng lành.

Ở quốc thổ ấy, nếu có các ác vừa mới hiện tướng, thời Tháp đó liền hiện nơi thần biến, phóng ra lửa sáng lớn khiến cho các ác, việc chẳng lành đều bị diệt hết không có gì không diệt hết.

Nếu lại đối với chúng sinh có tâm ác. Hoặc là oán thù với bạn bè kết oán và các loại trộm cắp, giặc cướp muốn hoại nước này thì Tháp ấy cũng liền phóng ra ánh lửa lớn, tức ở nơi đó hiện các binh trượng. Giặc ác thấy xong, tự nhiên lui tan. Thường có tất cả Chư Thiên, Thiện Thần thủ hộ nước ấy.

Ở bốn chung quanh nước ấy khoảng một trăm do tuần đều kết thành đại giới. Trong đó, nam nữ cho đến súc sanh không bị các dịch lệ, bệnh khổ, đấu tranh, chẳng làm tất cả việc phi pháp. Các Chú Thuật khác chẳng thể gây hoại.

Đây là pháp Đà La Ni căn bản.

Này thiện nam tử! Nay ta vì ông nói pháp Đà La Ni trong Tướng Luân Đường.

Liền nói Chú là:

Án tát bà đát tha yết đa, tỳ bố la duệ sắt trí mạt ni yết nặc ca, hạt lạt chiết đá tỳ bồ sắt xỉ duệ sắt trí đỗ lỗ đỗ lỗ tam mạn đá vĩ lỗ cát đế tát la tát la, bá bả, vĩ du đạt ni bồ đạt ni, tam bồ đạt ni bát la phạt la duệ sắt trí phạt lệ mạt ni thoát thệ cốt lỗ chỉ la mạt la, tỳ thú đệ hồng, hồng, sa ha.

OṂ SARVA TATHĀGATA VIPULA YEṢṬHI, MAṆI KANAKA.

HĀRA HARṢAṆA, VIBHŪṢITA YEṢṬHI, DHURU DHURU.

SAMANTĀVILOKITE, SARA SARA, PĀPA VIŚODHANI, BODHANI SAṂBODHANI, PRAVĀRA YEṢṬHI VARE, MANIṢITĀ KURU, KILA MĀRA.

VIŚUDDHE, HŪṂ HŪṂ SVĀHĀ.

Thiện nam tử cần phải như pháp, viết chép Chú này chín mươi chín bản an trì ở bốn chung quanh Tướng Luân Đường. Lại chép Chú này với pháp công năng ở chính giữa đường, che kín chỗ để.

Làm như vậy xong tức đã xây dựng xong chín vạn chín ngàn Tướng Luân Đường, cũng đã an trí xong chín vạn chín ngàn Xá Lợi của Phật, cũng đã làm xong chín vạn chín ngàn cái Tháp Xá Lợi của Phật, cũng đã làm xong chín vạn chín ngàn cái Tháp của Bồ Đề Trường.

Nếu làm một cái Tháp bùn nhỏ, ở trong an trí Đà La Ni này tức đã làm xong chín vạn chín ngàn các Tháp báu nhỏ.

Nếu có chúng sinh nhiễu quanh Tháp này theo bên phải, hoặc lễ một bái, hoặc một lần chắp tay, hoặc đem một bông hoa, hợc một thứ hương, hương đốt, hương xoa bôi, chuông, chuông lắc tay, phan, lọng mà cúng dường tức đã cúng dường xong chín vạn chín ngàn cái Tháp của Chư Phật. Đây tức thành tựu căn lành rộng lớn, nhóm tụ phước đức.

Nếu có loài chim bay, muỗi, ruồi trâu, con ruồi đến trong bóng ảnh của cái Tháp sẽ được thọ ký A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề mà chẳng thoái chuyển.

Nếu từ xa nhìn thấy Tháp này hoặc nghe tiếng chuông, hoặc nghe tên gọi thì hết thảy nghiệp Vô Gián, tất cả tội chướng đều được tiêu diệt. Thường được tất cả chư.

Phật hộ niệm, được đạo thanh tịnh của Như Lai Đây gọi là Pháp Đà La Ni của Tướng Luân.

Thiện nam tử! Nay ta vì ông nói Pháp Đà La Ni tu sửa Tháp Phật.

Liền nói Chú là:

Án tát bà đát tha yết đa mạt la, tỳ du đạt ni kiện đà tỳ lê bát na phạt lệ bát la để tăng tắc ca la đát tha yết đa, đà đô, đạt lệ đạt la, đạt la.

san đạt la, san đạt la tát bà đát tha yết đa a địa sắt xỉ đế, sa ha.

OṂ SARVA TATHĀGATA MALA VIŚODHANI, GANDHA VIRYAPAṆA VARE PRATISAṂSKĀRA, TATHĀGATA DHĀTU DHĀRE, DHARA DHARA, SAṂDHARA SAṂDHARA, SARVA TATHĀGATA ADHIṢṬITE SVĀHĀ.

Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Hoặc tự mình làm Tháp, hoặc dạy người làm, hoặc tu sửa Tháp cũ, hoặc làm Tháp nhỏ. Hoặc dùng bùn làm, hoặc dùng đá nung, nên trước hết Chú đủ một ngàn không trăm lẻ tám biến sau đó tạo làm. Phần lượng của Tháp ấy, hoặc như móng ngón tay, hoặc dài một khuỷu tay, cho đến một do tuần.

Dùng sức Chú ấy với sự chí tâm cho nên ở trong Tháp bằng bùn tuôn ra mùi thơm.

Ấy là: Ngưu Đầu, Chiên Đàn, Xích Bạch Chiên Đàn, Long Não, Xạ Hương, Uất Kim Hương … với mùi thơm của Cõi Trời.

Tự mình làm hay dạy người làm đều được thành tựu căn lành rộng lớn, nhóm tụ phước đức. Nếu bị đoản mệnh, khi tiếp chạm Tháp liền được sống lâu. Sau khi chết được thấy chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha Phật.

Thường được tất cả Chư Phật nghĩ nhớ mà trao cho thọ ký sinh về cõi Cực Lạc, thọ mệnh chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha tuổi, thường được túc mệnh, mắt của Cõi Trời, thân của Cõi Trời, tai của Cõi Trời, mũi của Cõi Trời. Thân ấy tuôn ra mùi thơm Chiên Đàn của Cõi Trời, trong miệng thường tuôn ra hương thơm của hoa Ưu Bát La, được năm thần thông, được bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nếu chú vào bùn thơm cho đến chút ít như hạt cải rồi xoa bôi trên Tháp này thì người ấy cũng được nhóm phước đức lớn như trên đã nói.

Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di như pháp viết chép Đà La Ni này. Dùng Tâm trong sạch tôn trọng cúng dường như Phật không khác. Đối với người viết chép cũng tăng thượng cúng dường như trước đã nói. Viết Chú Ấn xong để ở trong Tháp với bên trong Tháp đã tu sửa và trong Tướng Luân Đường như pháp thành tựu thì người đó sẽ được căn lành rộng lớn, nhóm tụ phước đức.

Khi Đức Phật nói Ấn Pháp của Đà La Ni này thời tất cả các Như Lai ở mười phương đồng thanh khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay! Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác đã hay khéo nói Ấn Pháp của Đà La Ni này khiến cho tất cả chúng sinh đều không có lỗi chấp không không quá, được lợi ích lớn, nhiếp nhóm phước lớn cho đến A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề được bất thoái chuyển.

Bấy giờ, trong Chúng: Tám Bộ Trời Rồng, các Bồ Tát, Chấp Kim Cương Chủ, bốn vị Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên Vương, Na La Diên, Ma Hề Thủ La, Ma Ni Bạt Đà La, Bổ Na Bạt Đà với các hàng Bạt La Thần, Dạ Ma Thần, Bà Lâu Ma Thần, Câu Bệ La Thần, Bà Táp Bà Thần, các Tiên Chúng… nghe pháp này xong, khởi tâm chán lìa, điều phục nhu nhuyễn, sinh đại hoan hỷ.

Dùng âm thanh lớn trợ nhau nói rằng: Hiếm có! Hiếm có các Phật Như Lai! Hiếm có! Hiếm có Diệu Pháp chân chính! Hiếm có! Hiếm có Ấn Pháp của Đà La Ni này! Điều Đức Như Lai đã nói thật khó gặp được!

Lúc đó, Đại Bà La Môn Kiếp Bỉ La Chiến Trà nghe Pháp Ấn của Đại Đà La Ni này có công đức thù thắng lợi ích lớn, liền được thấu tỏ minh đạt Pháp Tính Dharmatā, lìa hẳn bụi dơ, chặt các phiền não, diệt các tội chướng, thọ mệnh nối dài, sinh đại hoan hỷ, mừng vui vô lượng. Khiến cho tất cả chúng sinh cũng đều được tâm ý thanh tịnh.

Khi ấy, Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát đem một cái đài báu có mọi loại báu xen kẽ trang nghiêm, dùng sự trang nghiêm của Phật để trang nghiêm.

Vì yêu thích Pháp cho nên cúng dường Đức Như Lai, nhiễu quanh theo bên phải ba vòng, đỉnh lễ chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn Pháp ấn, Đàn Trường của Đà La Ni này thật là khó gặp. Đức Thế Tôn nói kho tàng diệu pháp của tất cả chúng sinh này trấn cõi Diêm Phù Đề, khiến cho các chúng sinh gieo trồng căn lành lớn, ban cho thọ mệnh, tiêu diệt phiền não.

Nay con cũng sẽ khiến cho chúng sinh gieo trồng căn lành, cúng dường các Như Lai. Nay ở trước Đức Phật nói Tự Tâm Ấn Đà La Ni Pháp.

Liền nói Chú là:

Nam Mô bạc già phạt đề nạp bà nạp phạt để nam tam miểu tam Phật đà câu chi na dữu đa thiết đa tác ha tát la nam Nam Mô tát bà nễ phạt la noa tỳ sắt kiếm tỳ ni, Bồ Đề tát đỏa dã An đổ lỗ đổ lỗ tát bà a phạt la noa, tỳ thú đạt ni tát bà đát tha yết đa ma dữu bá lạt ni tỳ bố lệ nê mạt lệ, tát bà tất đà nam ma tắc cật lật đế bạt la bạt la tát bà tát đỏa phộc lô yết ni hồng, tát bà ni phạt la noa tỳ sắt kiếm tỳ nê tát bà bá ba, tỳ thiêu đạt ni, sa ha.

NAMO BHAGAVATE NAVA NAVATĪNĀṂ SAMYAKSAṂBUDDHA.

KOṬI NAYUTA ŚATA SAHASRĀNĀṂ.

NAMO SARVA NĪVARAṆA VIṢKAṂBHIN BODHISATVĀYA.

OṂ DHURU DHURU SARVA AVARAṆA VIŚODHANE SARVA TATHĀGATA MAYA UPĀLANI VIPULE NIRMALE SARVA SIDDHA.

NAMASKṚTE BHARA BHARA SARVA SATVA AVALOKINI HŪṂ SARVA NĪVARAṆA VIṢKAṂBHIN SARVA PĀPA VIŚODHANE SVĀHĀ.

Thế Tôn! Đà La Ni này là điều mà chín mươi chín ức Chư Phật đã nói. Nếu có người chí tâm, tạm nệm tụng thì tất cả tội nghiệp thảy đều được tiêu diệt.

Nếu có người y theo Pháp viết chép Chú này đủ chín mươi chín bản rồi để ở trong Tháp hoặc bốn chung quanh Tháp. Có người lễ bái với khen ngợi. Hoặc đem hương, hoa, hương xoa bôi, đèn, đuốc cúng dường Tháp này thì kẻ nam hiền nữ thiện ấy ở trong đời này diệt tất cả tội, trừ tất cả chướng, mãn tất cả nguyện.

Ắt đã cúng dường xong chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha hằng hà sa đẳng các Như Lai, cũng đã cúng dường xong chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha hằng hà sa đẳng cái Tháp Xá Lợi. Đây tức thành tựu căn lành rộng lớn, nhóm tụ phước đức.

Nếu có Tỳ Kheo vào ngày tám, ngày mười ba, ngày mười bốn, ngày mười năm trong tháng tắm rửa, hộ tịnh, mặc áo sạch mới. Nhịn ăn một ngày một đêm, hoặc một thời chỉ ăn ba loại thức ăn màu trắng sữa, lạc, cơm gạo tẻ nhiễu quanh Tháp Phật theo bên phải, tụng Đà La Ni này mãn một trăm lẻ tám biến thì tội trong trăm ngàn kiếp với năm tội vô gián đều được trừ diệt. Con, trừ cái chướng liền hiện thân khiến cho ước nguyện của người ấy thảy đều đầy đủ, được thấy tất cả Chư Phật Như Lai.

Nếu tụng đủ hai trăm biến sẽ được các Thiền Định.

Nếu tụng đủ ba trăm biến sẽ được Tịnh Nhất Thiết Chướng Tam Muội.

Nếu có người tụng đủ bốn trăm biến sẽ được bốn vị Đại Thiên Vương thường đến gần gũi, hiện thân hộ vệ, làm cho thân tâm của người ấy tăng thêm đại uy đức.

Nếu có người tụng đủ năm trăm biến sẽ nhiếp được vô lượng A tăng kỳ chẳng thể tính các căn lành lớn.

Nếu có người tụng đủ sáu trăm biến, liền được thành tựu pháp căn bản của Chú này, làm bậc Trì Chú Thiên Tiên.

Nếu có người tụng đủ bảy trăm biến, sẽ được uy đức lớn, đầy đủ quang minh.

Nếu có người tụng đủ tám trăm biến sẽ được tâm thanh tịnh.

Nếu có người tụng đủ chín trăm biến sẽ được năm căn thanh tịnh.

Nếu có người tụng đủ một ngàn biến sẽ được quả Tu Đà Hoàn.

Nếu tụng đủ hai ngàn biến sẽ được quả Tu Đà Hàm.

Nếu tụng đủ ba ngàn biến sẽ được quả A Na Hàm.

Nếu tụng đủ bốn ngàn biến sẽ được quả A La Hán.

Nếu tụng đủ năm ngàn biến sẽ được quả Tích Chi Phật.

Nếu tụng đủ sáu ngàn biến sẽ được Phổ Hiền Địa.

Nếu tụng đủ bảy ngàn biến sẽ được Sơ Địa Hoan Hỷ Địa.

Nếu tụng đủ tám ngàn biến sẽ được Địa thứ năm Nan Thắng Địa.

Nếu đủ chín ngàn biến sẽ được Phổ Môn Đà La Ni.

Nếu đủ mười ngàn biến sẽ được Bất Động Địa.

Nếu lại đủ mười một ngàn biến sẽ được Như Lai Địa, thành tướng Đại Nhân, rống tiếng rống của Đại Sư tử.

Nếu lại có người muốn ở đời này thành tựu công đức, lợi ích lớn… thì nên tu sửa Tháp cũ, tụng Chú, nhiễu quanh theo bên phải đủ một trăm lẻ tám lần ắt ước nguyện trong tâm không có gì không thành mãn.

Thời Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khen Trừ Cái Chướng rằng: Lành thay! Lành thay thiện nam tử! ông hay như vậy tùy thuận Chú Pháp mà Như Lai đã diễn để hỗ trợ tuyên nói.

Lúc ấy, Chấp Kim Cương Đại Dạ Xoa Chủ bạch Phật rằng: Thế Tôn! Pháp Đà La Ni của Đại Chú Vương này đồng với Như Lai Tạng cũng như Tháp Phật. Đức Thế Tôn dùng Thắng Pháp này trấn cõi Diêm Phù Đề khiến cho tất cả chúng sinh đều được giải thoát, hay ở thời sau làm đại Phật sự.

Đức Phật bảo Chấp Kim Cương Thủ: Nếu Đại Chú Pháp này ở đời tức đồng với Như Lai hiện hữu. Do đấy hay làm việc Phật đã làm, chỉ làm chút ít cũng thành nhóm phước lớn huống chi căn lành gặt được do dùng nhiều công. Giả sử trăm ngàn ức na do tha hằng hà sa Chư Phật nói cũng chẳng thể hết, mắt Phật nhìn thấy chẳng thể ví dụ, chẳng thể lường chẳng thể nói.

Chấp Kim Cương Thủ thưa hỏi: Dùng nhân duyên nào mà chỉ dụng chút công lực mà thành nhóm phước lớn?

Đức Phật bảo: Hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói. Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di muốn được đầy đủ nhóm công đức lớn, nên y theo pháp trước viết chép bốn Chú Pháp Vương của Đại Đà La Ni đều đủ chín mươi chín bản. Sau đó ở trước Tháp Phật làm một cái Đàn vuông, dùng phân bò xoa tô mặt đất.

Ở bốn góc đàn để cái bình chứa đầy nước thơm, bày hàng lò hương để cúng dường. Để cái bát chứa đầy hương, hoa, nước, gạo tẻ ở trên Đàn với ba vị thực phẩm hòa mè đen, đậu xanh, gạo tẻ với nhau rồi nấu chín và ba loại thức ăn màu trắng sữa, lạc, cơm gạo tẻ đều để trong cái bình, bày ở trên Đàn.

Mọi loại quả trái đủ chín mươi chín trái và bốn loại thức ăn, tất cả thứ cần thiết với các hương hoa đều để bên trên. Đem Đà La Ni Chú này để trong Tướng Luân Đường với bốn chung quanh Tháp. Đem Chứ Vương Pháp để bên trong cái Tháp.

Tưởng Phật ở mười phương, chí tâm tụng niệm Đà La Ni này Liền nói Chú là:

Nam Mô nạp bà nạp phạt đế nam, đát tha yết đa câu chi nam căng già nại địa bà lô ca tam ma nam Án tỳ bố lệ, tỳ mạt lệ bát la phạt lệ thị na phạt lệ tát la tát la tát bà đát tha yết đa đà đô yết tỳ tát để địa sắt xỉ đế, tát ha a na đốt đô phạn ni, sa ha tát bà đề bà na bà a gia nhị bột đà, a địa sắt xá na, tam ma dã, sa ha.

NAMO NAVA NAVATĪNĀṂ TATHĀGATA KOṬIṆĀṂ GAṄGA NADĪ VA LOKA SAMĀNĀṂ.

OṂ VIPULE VIMALE PRAVARE, JINA VARE, SARA SARA, SARVA TATHĀGATA DHĀTU GARBHE SATYĀDHIṢṬITE SVĀHA ANĀ STHOPANĪ SVĀHĀ SARVA DEVA NABHA YĀNI BUDDHĀDHIṢṬANA SAMAYA SVĀHĀ.

Nên thiêu đốt hương liên tục, tụng Đà La Ni Chú này hai mươi tám biến. Tức thời tám vị Đại Bồ Tát, tám vị Đại Dạ Xoa Vương, Chấp Kim Cương Dạ Xoa Chủ, bốn vị Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên Vương, Na La Diên, Ma Hề Thủ La đều dùng tay của mình cùng giữ cái Tháp ấy với Tướng Luân Đường.

Cũng có chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha hằng hà sa Chư Phật đều đến chỗ này gia trì cái Tháp ấy đặt Xá Lợi của Phật. Do gia trì cho nên khiến cái Tháp giống như báu Đại Ma Ni.

Người đó do điều này ắt đã làm xong chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha các Tháp báu lớn. Do đây sẽ được căn lành rộng lớn, thọ mệnh lâu dài, thân trong sạch không dơ bẩn, đều trừ mọi bệnh, diệt hết tai chướng.

Nếu có người nhìn thấy cái Tháp này sẽ diệt được năm tội nghịch. Nghe tiếng chuông của Tháp sẽ tiêu trừ tất cả nghiệp ác, xả bỏ thân sẽ sinh vào Thế Giới Cực Lạc.

Nếu có người truyền nghe tên của cái Tháp này sẽ được A Tỳ Bạt Trí.

Bên đưới cho đến loài chim, thú được nghe âm thanh này sẽ lìa nẻo súc sanh, vĩnh viễn chẳng thọ nhận trở lại, sẽ được nhóm phước đức rộng lớn.

Nếu lại có người muốn được đầy đủ sáu Ba La Mật. Nên làm cái Đàn vuông. Trước tiên dùng phân bò xoa tô, sau đó đem đất sạch phủ lên trên, dùng nước thơm nóng rải lên để làm sạch thứ đã xoa bôi. Dùng năm cái bát cúng dường để ở trên Đàn. Chép bốn loại Đà La Ni Chú lúc trước, đều đủ chín mươi chín bản.

Dùng tay làm chín mươi chín cái Tháp nhỏ. Ở trong Tháp đều để một bản. Tướng Luân Chú ấy quay lại để trong Tướng Luân Đường của cái Tháp nhỏ, bày thành hàng trên Đàn. Đem các hương hoa cúng dường, nhiễu quanh bảy lần.

Tụng Đà La Ni này là:

Nam Mô nạp bà nạp phạt để nam, đát tha yết đa căng già nại địa bà lô ca câu chi na dữu đa thiết đa tác ha tát la nam Án bố lý bố lý chiết lý ni chiết lý mộ lý hốt lý xã la bạt lý, sa ha.

NAMO NAVA NAVATĪNĀṂ TATHĀGATA GAṄGA NADĪ VA.

LOKA KOṬI NAYUTA ŚATA SAHASRĀNĀṂ.

OṂ PURI PURI CĀRINI MŪLE HURE JALA VĀRE SVĀHĀ.

Nếu y theo Pháp này mà thọ trì thảy đều thành mãn sáu Ba la mật. Điều này tức đồng với làm xong chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha hằng hà sa đẳng cái Tháp bảy báu.

Đây tức đã cúng dường chín mươi chín ức trăm ngàn na do tha Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đều đem mây cúng dường to lớn của Chư Thiên, mọi loại trang nghiêm, cung điện của Chư Thiên, vật cúng của Chư Thiên mà làm cúng dường. Các Như Lai ấy thảy đều ghi nhớ kẻ nam hiền nữ thiện này, khiến cho người ấy sẽ được căn lành rộng lớn, nhóm tụ phước đức.

Nếu có người đối với Chú Vương này như pháp viết chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính, đeo ở trên thân. Dùng uy lực cửa Chú ủng hộ người đó khiến cho các oan gia với bạn bè kết oán …, tất cả Dạ Xoa, La Sát, Phú Đan Na… đều đối với người này chẳng thể gây điều ác, đều ôm sự sợ hãi trốn chạy các phương.

Nếu có kẻ được nói chuyện với người này cũng được trừ diệt năm tội Vô gián.

Nếu có kẻ được nghe tiếng nói của người này, hoặc tại bóng ảnh của người ấy, hoặc tiếp chạm thân của người ấy … sẽ khiến cho tất cả túc chướng, tội nặng của kẻ ấy đều được tiêu trừ. Hết thảy các độc chẳng thể gây hại, lửa chẳng thể thiêu đốt, nước chẳng thể cuốn chìm.

Ếm đối, tà mỵ chẳng được dịp thuận tiện hãm hại. Sấm, Điện, sét đánh không thể gây kinh sợ. Thường được Chư Phật cùng chung gia trì, tất cả Như Lai an ủi hộ niệm. Chư Thiên, Thiện Thần tăng thêm thế lực cho kẻ ấy, chẳng bị sự khống chế của các Chú Thuật khác.

Chính vì thế cho nên cần phải ở tất cả chốn cầu Chú Pháp này, chép xong đem để trong cái Tháp ngay trên đường đi, khiến cho chúng sinh qua lại. Bên dưới cho đến chim, thú, ngỗng, ruồi, con kiến… đều được lìa hẳn tất cả địa ngục với các lối ác, sinh vào các cung Trời, thường nhớ túc mệnh, đến bất thoái chuyển.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát, Chấp Kim Cương Thủ, bốn vị Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên Vương … với quyến thuộc, Na La Diên Thiên, Ma Hê Thủ La … rằng: Này thiện nam tử! Ta đem Vua của Chú Pháp này giao phó cho các ông, cần phải thủ hộ, trụ giữ, ủng hộ.

Đưa vai gánh đầy tráp báu. Ở trong thời sau đừng để bị đoạn tuyệt, nên khéo cầm giữ, nên khéo che giúp. Trao cho tất cả chúng sinh đời sau khiến cho họ được nghe mà lìa năm tội Vô Gián.

Lúc đó, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Chấp Kim Cương Thủ, bốn vị Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Ma Hê Thủ La với tám Bộ Trời Rồng đều lễ bàn chân của Đức Phật rồi đồng thanh bạch rằng: Chúng con đã nương nhờ vào sự gia hộ của Đức Thế Tôn, nhận Chú pháp này với pháp tạo Tháp thảy đều thủ hộ, trụ giữ, đọc tụng, viết chép. Cúng dường.

Vì hộ giúp cho tất cả chúng sinh cho nên vào thời phận sau nay, khiến chúng sinh ấy đều được nghe biết, chẳng bị đọa vào địa ngục với các nẻo ác. Chúng con vì báo ân lớn của Như Lai đều cùng nhau thủ hộ, khiến cho lưu thông rộng rãi, tôn trọng cung kính như Phật không có sai khác. Chẳng để cho pháp này bị hoại diệt.

Đức Phật bảo rằng: Lành thay! Lành thay! Các ông cần hay thủ hộ cho bền chắc, trụ giữ pháp Đà La Ni như vậy.

Thời các Đại Chúng nghe Đức Phật nói xong, đều vui vẻ phụng hành.

Kinh Vô Cấu Tịnh Quang Đại Đà La Ni.

NAMO SAPTA SAPTATIBHYAḤ SAMYAKSAṂBUDDHA KOṬINĀṂ PARIŚUDDHA MANASA VĀ CITTA PRATIṢṬITĀNĀṂ NAMO BHAGAVATI AMITAYUṢASYA TATHĀGATASYA OṂ TATHĀGATA ŚUDDHE AYU VIŚUDDHANI SAṂHĀRA SAṂHĀRA SARVA TATHĀGATA VIRYA BALE DA PRATISAṂHARA AYU SMARA SMARA SARVA TATHĀGATA SAMAYAṂ BODHI BODHI BUDDHYA VIBUDDHYA BODHAYA BODHAYA SARVA SATVANĀṂ SARVA PĀPĀVARAṆA VIŚUDDHE VIGATA MARA BHAYAṂ SUBUDDHĀ BUDDHE HURU HURU SVĀHĀ.

Ghi chú: Tướng Luân Đường.

Cây trụ hình Tướng Luân chín bánh xe trên cái Tháp. Lại gọi là Tướng Luân Đường, Tướng Luân Tháp, gọi tắt là Luân Đường. Tức dùng đồng xanh hay thép… đúc tạo Tướng Luân rồi dựng đứng trên mặt đất, thay thế cho tác dụng của cái Tháp. Ở trong đó an Kinh Điển.
 

TƯỚNG LUÂN

TƯỚNG LUÂN ĐƯỜNG
 

Bản khác ghi nhận các Đà La Ni trong Kinh Bản trên là:

Tối Thắng Vô Cấu Tịnh Quang Căn Bản Đà La Ni:

NAMAḤ SAPTA SAPTATĪBHYAḤ SAMYAKSAṂBUDDHA.

KOṬĪNĀṂ PARIŚUDDHA KĀYA VĀK CITTA PRATIṢṬHITĀNĀṂ.

NAMO BHAGAVATE AMITĀYUṢAYA TATHĀGATĀYA.

OṂ SARVA TATHĀGATA SIDDHĀYUR VARṆA BALA ŚIDDHE SAṂBHĀRA SAṂBHĀRA SARVA TATHĀGATA VĪRYA BALENA PRATISAṂHĀRYA SMARA SMARA SARVA TATHĀGATA SAMAYAṂ ANUPĀLAYA BODHI BODHI BUDDHYA VIBUDDHYA BODHAYA BODHAYA SARVA SATTVĀNĀṂ SARVA PĀPĀVARAṆA VIŚUDDHAYA.

SARVA MĀRA BHAYAṂ VIGHĀTE SUBUDDHA BUDDHI HURU HURU SVĀHĀ.

Tướng Luân Đường Đà La Ni:

OṂ SARVA TATHĀGATA VIPULA YEṢṬHA, MAṆI KANAKA RAJATI VIBHŪṢITA DHARMA CAKRAṄKA SAMANTĀVABHASE, SĀRA SĀRA, SARVA PĀPA VIŚODHAYA, BODHANI SAṂBODHANI, PRAVARA YEṢṬHA LAKṢMI, MAṆIDHVAJE RUCIRA MĀLĀ VIMALE, HŪṂ HŪṂ SVĀHĀ.

Tu Tạo Tháp Đà La Ni:

OṂ SARVA TATHĀGATA VAIRYA VIŚUDDHE, GANDHA KUṬĪ.

PĀṂŚUVARE PRATISAṂSKĀRA, TATHĀGATA DHĀTU VARA PRAVARA DHARE, SAṂBHĀRA SAṂBHĀRA, SARVA TATHĀGATĀDHIṢṬHITE SVĀHĀ.

Trừ Cái Chướng Bồ Tát Thuyết Nhất Thiết Phật Tâm Đà La Ni:

NAMO BHAGAVATE NAVA NAVATĪNĀṂ SAMYAKSAṂBUDDHA.

KOṬI NIYUTA ŚATA SAHASRĀNĀṂ.

NAMAḤ SARVA NĪVARAṆA VIṢKAṂBHINE BODHISATTVĀYA.

OṂ DURU DURU SARVĀVARAṆA VIŚODHANI SARVA TATHĀGATĀYUḤ PĀLANI VIPULE VIMALE SARVA SIDDHA.

NAMASKṚTE BHARA BHARA SARVA SATTVĀNUGRAHA HŪṂ HŪṂ SARVA NĪVARAṆA VIṢKAṂBHINI SARVA PĀPA VIŚODHANI SVĀHĀ.

Tướng Luân Đường Cập Tháp Tứ Chu Đà La Ni:

NAMO NAVA NAVATĪNĀṂ TATHĀGATA KOṬIṆĀṂ GAṄGĀ NADĪ VĀLUKA SAMĀNĀṂ.

OṂ VIPULE VIMALE PRAVARA, JINA VARE, SĀRA SĀRA, SARVA TATHĀGATA DHĀTU GUHĀŚAYĀYATTA BHUVANE ADHIṢṬHITE SVĀHĀ SARVA DEVĀ MĀVĀHA YĀMI BUDDHA SAMAYĀDHIṢṬHANE SVĀHĀ.

Tướng Luân Đường cập Tuyền Nhiễu Đà La Ni:

NAMO NAVA NAVATĪNĀṂ TATHĀGATA GAṄGĀ NADĪ VĀLUKA KOṬI NIYUTA ŚATA SAHASRĀNĀṂ.

OṂ BHŪ BHŪRI CĀRINI CARI CARAṆA CIRE MUNI MUNI ŚREṢṬHĀLAṂKĀRE SVĀHĀ.

ĀRYA RAŚMI VIMALA VIŚUDDHA PRABHA MŪLA DHĀRAṆĪ.

Tối Thắng Vô Cấu Tịnh Quang Minh Căn Bản Đà La Ni:

NAMAḤ SAPTA SAPTATĪBHYAḤ SAMYAKSAṂBUDDHA.

KOṬĪNĀṂ PARIŚUDDHA KĀYA VĀKI CITTA PRATIṢṬHITĀNĀṂ.

NAMO BHAGAVATE AMITĀYUṢASYA TATHĀGATASYA.

OṂ TATHĀGATA SUDDHE ĀYUḤ VIŚODHANI SAṄHARA SAṄHARA.

SARVA TATHĀGATA VĪRYA BALENA PRATISAṄHARA ĀYU SMARA SMARA SARVA TATHĀGATA SAMAYAṂ BODHI BODHI BUDDHYA VIBUDDHYA BODHAYA BODHAYA SARVA SATVĀNĀṂ SARVA PĀPA ĀVARAṆA VIŚUDDHE VIGATE MALA BHAYE SUBUDDHA BUDDHE HURU HURU SVĀHĀ.

***