Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Vô Cực Bảo Tam Muội

PHẬT THUYẾT

KINH VÔ CỰC BẢO TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN BẢY
 

Các báu từ hóa được

Gốc lìa từ không có

Gốc ấy đồng hóa sinh

Nên là Đấng Nhân Trung

Dục là từ hóa khởi

Pháp vốn không có vậy

Hóa trụ vào năm đường

Không có thấy hóa chủ.

Sinh tử và năm đường

Không tương liên với hóa

Do đời tham không dứt

Thế nên hiện Chánh Giác.

Như Lai và hóa chủ

Mười phương tôn vô cực

Giáo hóa khắp thế gian

Thế gian người không biết.

Pháp luân không sắc chuyển

Đối với hóa không chuyển

Sắc buộc, có tư tưởng

Pháp sâu dày không chuyển,

Tưởng sắc hóa mười phương

Không ai không thọ pháp

Trí tuệ lớn ban cho

Thế gian không người nói.

Các dục và La Hán

Không được giác là báu

Nên ở trong chúng hội

Rộng nói, không hai báu.

Trí tuệ không cùng cực

Ánh sáng không có hơn

Làm cầu, thuyền, mười phương

Đã nói không có hai.

Mười phương các Cõi Phật

Khiến thảy đều bình đẳng

Cũng không bắt người ấy

Phát ý, có tâm khác.

Các vườn pháp mười phương

Mọi pháp vượt dơ bẩn

Cũng không từ thế gian

Với pháp, không giải thoát.

Với tuệ không có thoát

Không thấy người qua lại

Với lặng lại thấy lặng

Trong sáng, lại thấy sáng.

Pháp chẳng phải được tuệ

Tự nhiên vốn không vậy

Tuệ, tối, đều bằng nhau

Nên không có tướng thức.

Si, tuệ không đồng nhau

Tuệ ấy nhiều tối sáng

Ban cho chỉ là pháp

Như hoa mọc núi cao.

Các ác không thể tận

Sắc dục không thể tận

Niết Bàn và sinh tử

Tất cả đều như vậy.

Mười phương các Phật tuệ

Người vô tri, vô giác

Sở dĩ thấy pháp sáng

Nên nói đời không có.

Bồ Tát Đàm Ma lại hỏi Bồ Tát Bảo Lai: Này Nhân Giả! Đối với hóa không khởi lìa, vậy ai thành chủ tể?

Niết Bàn không sinh diệt, không xa năm đường, vị lai phát ý trụ pháp luân chuyển, trong sạch, không có các nhơ bẩn.

Tất cả chúng sinh ai là người được độ?

Bảo Lai đáp: Vui thay! Những lời Bồ Tát hỏi! Mục đích là muốn giải quyết tất cả nguồn gốc sinh tử, cần phải làm gì?

Là Bồ Tát có chín pháp báu:

1. Đối với hóa hóa chủ hay không chủ.

2. Đối với Niết Bàn cùng với sinh tử, từ đầu không có biết nhau.

3. Đối với sinh tử, đối với diệt. Không diệt.

4. Khiến tất cả Cõi Trời không sinh trở lại chỗ không sinh.

5. Đang khởi ý, chưa khởi ý. Như xứ trụ.

6. Quán tam thiên đại thiên Cõi Phật, không có người được độ.

7. Đối với niệm, không khởi xứ.

8. Khiến cho ba ngàn Cõi Phật cùng giữ lấy Niết Bàn, thì ý cũng không vui. Không giữ lấy Niết Bàn, thì ý cũng không giận.

Vì sao?

Vì các pháp là không xứ.

9. Tùy nguyện chứng La Hán. Ta đều làm cho phát ý. Nếu người có phát ý cầu nguyện, thì khiến không trở lại, không khởi các sinh, không có nguyện lại.

Đó là chín pháp.

Bảo Lai lại nói kệ:

Có thể không, chẳng thể

Với dục không chỗ dục

Đã độ, người không thấy

Nơi pháp chuyển vô thường.

Người tuệ đã không nói

Do độ người không qua

Nên thấy đại chánh pháp

Trên đời không có hơn.

Đạo là tên vô thường

Nên là báu mười phương

Người được hay không được

Sinh tử không có đường.

Bốn hạng không thể tận

Vừa ý, không biết đủ

Thế gian đều vui theo

Không xả, không được đạo.

Sợ sinh không giải thoát

Không sợ không giải thoát

Sinh tử nên nêu danh

Lập ra thành năm đường.

Người có báo không đáp

Có thể gọi là pháp

Pháp là vốn không hai

Có được bằng thật quán.

Không rộng cũng không ngắn

Vô cực không tính được

Bản tế như hình bóng

Không có người qua lại.

Với khởi không chỗ khởi

Pháp không có các dục

Sinh tử vốn không nơi

Hóa sinh tử như vậy.

Với sạch không có sạch

Với nhơ không có nhơ

Đều là người mười phương

Cắt đứt hết năm đường.

Ý trong cũng như nước

Tất cả không vết nhơ

Xanh vàng và đen trắng

Đều được thấy hình ấy.

Các pháp không quở trách

Tức được báu vô thượng

Tôi, ta cùng với người

Thế gian không có người.

Đế chẳng trụ, không trụ

Có được thật như vậy

Cái biết không chỗ thấy

Thế gian thật như thế.

Chẳng độ, không chẳng độ

Lúc đó ai không có

Mười phương lập Chánh Giác

Đều được báu vô thượng.

Bồ Tát Đàm Ma hỏi Bồ Tát Bảo Lai: Thưa Nhân Giả! Muốn khiến các hàng Trời, Người, trong mười phương tự nhiên đều khiến được như xứ ấy.

Vậy phải hành trì những pháp nào để đạt đến được?

Bảo Lai đáp: Có sáu việc để đạt được pháp này:

1. Khi nghe biết hội này, đó tức là báu.

2. Được nghe Kinh này, đó tức là báu.

3. Đạt được công đức căn bản, đó tức là báu.

4. Người được nghe Kinh Pháp này, đều được sáu vạn tam muội, đó tức là báu.

5. Đã được sáu vạn tam muội rồi, muốn người trong mười phương phát tâm vô thượng, đó tức là báu.

6. Đều khiến cho mười phương cùng được hội này ở nơi cây Phật, đó chính là báu.

Lúc nói kinh này, có chín mươi ức Bồ Tát. Sáu mươi bảy ức các hàng Trời, Người, đều đạt được pháp xứ Vô sở tùng sinh. Chín ức Bồ Tát được tam muội này. Tam Thiên Đại Thiên Cõi Phật chấn động sáu cách, các trời ở trên hư không trổi lên các loại âm nhạc, các rồng, A Tu Luân đều được nghe thấy tam muội sâu xa này.

A Nan sửa y phục, quỳ gối bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì?

Và phụng hành ra sao?

Phật bảo: Này A Nan! Kinh này tên là Vô Cực Bảo, phải nên phụng thờ.

Đức Phật nói Kinh này xong, các hàng Trời, Người, A Tu Luân, Nhân Phi Nhân đều vui mừng đảnh lễ Đức Phật, rồi cáo lui.

***