Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Vô Cực Bảo Tam Muội

PHẬT THUYẾT

KINH VÔ CỰC BẢO TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN HAI
 

Bồ Tát Di Lặc bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tam muội này rất là cao tột, muốn làm cho chúng hội đều đạt được tam muội này, vậy nên thực hành cách nào, để đạt được tam muội ấy?

Đức Phật nói:

Này Di Lặc! Nên thực hành chín pháp:

1. Thấy các pháp đều trong sáng, vô biên.

2. Thấy các Trời cũng trong sáng, vô biên.

3. Thấy các sinh tử trong sạch, vô biên.

4. Thấy năm nẻo đều trong sạch.

5. Đối với dục, không có mong cầu, tất cả đều trong sạch.

6. Thấy sắc trong ba cõi đều trong sạch, không ngằn mé.

7. Thấy Niết Bàn đều trong sáng, không ngằn mé.

8. Thấy địa ngục đều trong sáng, không ngằn mé.

9. Thấy mười phương không có nêu danh.

Đó là chín pháp. Bồ Tát thực hành chín pháp này thì mau chóng được tam muội đó.

Bồ Tát Di Lặc bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát được sáu vạn tam muội, tam muội này có hay không có giới hạn?

Được sáu vạn tam muội là không có giới hạn chăng?

Đức Phật nói: Này Di Lặc! Tuy được sáu vạn tam muội, nhưng chỉ có danh, không thể cùng tận. Tam muội đều đầy đủ.

Lại nữa, tam muội không những có một phẩm mà còn có: Tam muội không nhớ nghĩ. Tam muội có lìa dục. Tam muội ngồi nghe mười phương Phật. Tam muội hương hoa tự nhiên đến trang nghiêm các Cõi Phật. Tam muội thuyết pháp cho tất cả mọi người đều đạt được căn bản.

Tam muội phát xuất các pháp tưởng không hoàn lại. Tam muội khi nói kinh hóa thành trăm thứ tiếng. Tam muội hoa hương tự nhiên nói pháp ức ngàn vạn Cõi Phật, tam muội hàng phục các quần sinh. Tam muội phát ý sư tử bước đi một mình. Tam muội mọi chỗ đều phát Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Tam muội dù ở chỗ nào cùng đều cúng dường. Tam muội khi gió nổi lên như tiếng Phật nói kinh. Tam muội hướng đến pháp môn, không có pháp môn nào, không được khai ngộ. Tam muội dù ở nơi nào cũng hiện tướng sư tử. Tam muội bay đi mười phương.

Tam muội hướng đến pháp môn không có pháp môn nào là không khai ngộ, Bồ Tát vô cực trong mười phương đều qua lại. Tam muội ngồi biết ý của người khác trong mười phương. Tam muội hoại diệt các tưởng. Tam muội hoại diệt các thức. Tam muội hợp các cõi nước mười phương thành một cõi.

Tam muội phát ý bất tận. Tam muội nhìn ba cõi thấy không có người nào. Tam muội trụ một Cõi Phật đến một Cõi Phật. Tam muội dù ở nơi nào cũng khiến giáo pháp không bị đoạn tuyệt. Tam muội dù ở đâu cũng thường gặp Chư Phật.

Tam muội ngồi xem khắp mười phương, thấy đại binh, đại hỏa, đại thủy, đại phong, nhưng vẫn không sợ hãi, trái lại còn đến đó giáo hóa hướng dẫn. Tam muội dù ở đâu cũng dùng pháp làm ứng khí. Tam muội có thiện nam, thiện nữ, nghe tam muội này liền được ý tưởng qua lại không có thoái lui.

Tam muội như vậy, không thể kể hết. Nay vì chúng hội, ta chỉ trình bày sơ qua.

Còn có: Tam muội vô danh. Tam muội trụ các pháp. Tam muội tên các tuệ. Tam muội giáo pháp. Tam muội diệt ý tưởng chứng La Hán, Bích Chi Phật. Tam muội pháp bảo. Tam muội tổng trì vô danh pháp. Tam muội biết ý người. Tam muội đoạn trừ mọi phiền hà.

Tam muội chế lực dục giác. Tam muội diệt các lực trong mười phương. Tam muội ánh sáng trí tuệ chiếu xứ sở. Tam muội không thể tính đếm. Tam muội khi thấy pháp cũng như bóng nước. Tam muội tịnh tuệ không thể cùng tận. Tam muội các ác trống không. Tam muội không có nguyện tưởng.

Tam muội trụ thiền rồi đến Niết Bàn. Tam muội ví như kim cang không có dơ uế. Tam muội sáng vô cực. Tam muội đoạn tận các phiền não. Tam muội pháp thủy rộng lớn. Tam muội trang nghiêm thuyền lớn. Tam muội nhập vô danh. Tam muội ý vui không cùng. Tam muội tổng trì không chỗ quên.

Tam muội làm sáng lên chỗ tối tăm. Tam muội đã vui làm vui thêm. Tam muội hành Từ. Tam muội đại ai thanh tịnh. Tam muội nhập tâm bình đẳng. Tam muội vượt tâm bình đẳng. Tam muội đã thoát chưa thoát. Tam muội ánh sáng chiếu khắp nơi. Tam muội hiểu cái không chỗ hiểu.

Tam muội thoát tuệ thoát giáo. Tam muội hiện hoa sen. Tam muội lìa vô thường. Tam muội trí tuệ tối tôn không chủ tể. Tam muội dũng mãnh, không có gì là không nhiếp phục. Tam muội mở toang các cõi. Tam muội thanh tịnh vô hình. Tam muội báu vô danh. Tam muội như biển, không có gì là không thọ. Tam muội thần túc rộng lớn. Tam muội như khảy móng tay, không có gì nhanh bằng.

Bồ Tát Đàm Ma nói với Xá Lợi Phất: Này Xá Lợi Phất! Vì hỏi tuệ trụ, cho nên nói không thể cùng cực. Ngay lúc đó, nghe những gì được nghe đều được như ý. Chính mình không cao ngạo, việc làm sẽ không quên, ý thường cung kính, theo như lời dạy để trau dồi trí tuệ. Vì dụng ý không chỗ thọ, cho nên không mất lễ tiết.

Pháp được làm ra, không quên không loạn. Ý như châu báu, trừ các già bệnh, dùng ý làm pháp khí. Đấy là vui nhẫn nhục. Những gì suy nghĩ chỉ có tưởng, nói chắc chắn, cái vui chỉ có ở pháp ý tuệ. Bố thí không cần phải đúng lúc, thí rồi không luyến tiếc. Những gì ban ra không có thân hay sơ.

Những gì nghe rồi ý quán sát chắc chắn, vui vẻ, không chỗ có được. Ý đã vui mừng thì thân thể nhẹ an. Ý không ở tại ngoại đạo, chỉ muốn nghe pháp vị và Kinh Tỷ La, chỉ muốn nghe phương tiện thiện xảo, chỉ muốn nghe bốn tâm bình đẳng, muốn nghe pháp không bờ bến, như ý không có nhớ nghĩ gì khác.

Ý muốn thọ phương tiện thiện xảo, muốn nghe pháp vô sở tùng sinh, không tham quán. Ý chỉ muốn thọ từ độ, muốn biết tiếng vô thường, muốn biết ý vắng lặng, muốn biết không lại là không, muốn biết không tưởng, sinh tử và bố thí. Tất cả không muốn nghe, chỉ muốn nghe âm nhạc, rồi tùy theo âm nhạc đó mà trung thành tin ở mười phương, thực hành chân chánh để hàng phục các dục căn.

Bồ Tát Đàm Ma bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát đã được tam muội Bảo Như Lai, tự tại và đầy đủ các tuệ, liền được ba thứ báu:

1. Ví như bóng in trong nước, bóng cũng không ở trong nước, cũng không ở ngoài nước. Trong khoảng thời gian Bồ Tát ngồi đó, thân ấy ở tại mười phương, thân ấy cũng không tại mười phương.

2. Trong khoảng thời gian Bồ Tát ngồi đó, phân thân đều hiện ngồi trước mười phương Phật, thân ấy cũng không ngồi trước mười phương Phật.

3. Ví như la lớn giữa núi rừng, tiếng ấy liền vọng lại. Tiếng vang cũng không ở bên trong, cũng không ở bên ngoài. Trong khoảng thời gian Bồ Tát ngồi đó, các việc Bồ Tát nói đến, vang xa mười phương Phật. Các Bồ Tát trong mười phương, cũng không qua lại đến nơi ấy, nơi ấy cũng không đến các Bồ Tát.

Đức Phật bảo Bồ Tát Đàm Ma: Này Đàm Ma! Đã được môn Đà La Ni, cũng giống như có người cầm cung, ráp tên, bắn đến điểm mình muốn bắn. Khi bắn, tất cả đều trúng đích. Bồ Tát đem một tuệ, nhập vào vạn ức tuệ thì không có gì là không hoàn thành, tất cả cũng lại như vậy.

Đức Phật bảo Bồ Tát Đàm Ma: Này Đàm Ma! Ông có thấy khi A Tu Luân dấy binh, trong khoảng chốc lát, binh đã đến đông nghẹt cả sáu tầng Trời. Bồ Tát từ địa thứ chín trở xuống, khi muốn nói pháp, cũng lại như vậy.

Bồ Tát Bảo Lai nói với Xá Lợi Phất: Này Xá Lợi Phất! Người thanh tịnh thì nhiếp phục và tiêu diệt tham dục. Người có ý không tham dục thì không thể tận. Còn người có ác ý thì không thể hàng phục, ý lại động loạn lại bảo vệ ý ác của mình, thế nên không thể tận. Ý ấy sân tức, có hình dạng, ham muốn, cao ngạo, những gì cần làm thì không thể làm, luôn bị dục tác động.

Bồ Tát luôn muốn bảo vệ ý ấy, biết không thể tận việc khử trừ các ô uế, nên biết ý không thể tận. Người bảo vệ không làm cho lười biếng, nên biết ý này không thể tận. Còn người cuồng loạn mà dùng pháp bảo vệ họ, thì nên biết ý ấy cũng không thể cùng.

Người không có trí tuệ, muốn bảo vệ họ, biết ý không thể cùng cực. Tất cả dùng pháp thí và pháp thoát ban cho họ, nên biết ý không thể tận. Muốn dạy tất cả mọi người làm công đức, nên biết ý này không thể cùng tận.

Bồ Tát Bảo Lai nói với Xá Lợi Phất:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát có bốn pháp:

1. Ý khởi hạnh Đà La Ni không thể cùng tận.

2. Đà La Ni nhập vào hạnh không thể cùng tận.

3. Đem Đà La Ni dạy dỗ tất cả không thể cùng tận.

4. Học hỏi rộng rãi, nên Đà La Ni không thể cùng tận.

Đó là bốn.

Lại có bốn việc không thể tận:

1. Thượng thoát, trung thoát không thể tận.

2. Con đường của bốn hạng Tỳ Kheo không thể tận.

3. Vua khả ý không thể tận.

4. Mười hai nhân duyên không có chủ tể, không thể cùng tận.

Đó là bốn.

Lại có chín pháp không thể cùng tận:

1. Lời vô ngã không thể cùng tận.

2. Tưởng vô tác không thể cùng tận.

3. Nói Niết Bàn vắng lặng không thể cùng tận.

4. Chỗ tế độ không thể cùng tận.

5. Dòng nước biển cả chảy không mệt mỏi không thể cùng tận.

6. Các ác không nhơ, không thể cùng tận.

7. Tiếng đau khổ không thể cùng tận.

8. Tưởng đến và đi không thể cùng tận.

9. Chỗ tế độ không chủ tể không thể cùng tận.

Đó là chín.

Lại có chín pháp không thể cùng tận:

1. Cõi nước của Chư Phật không thể cùng tận.

2. Chỗ Bồ Tát đến không thể cùng tận.

3. Người phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác không thể cùng tận.

4. Mất nguyện giữ lấy quả La Hán, Bích Chi Phật không thể cùng tận.

5. Bồ Tát mười phương, từ một Cõi Phật bay đến một Cõi Phật, không thể cùng tận.

6. Sáu pháp Ba la mật không thể cùng tận.

7. Ba môn tam muội không thể cùng tận.

8. Vượt qua Niết Bàn cũng như hóa, không thể cùng tận.

9. Tam muội không thể cùng tận. Đó là chín.

Bồ Tát Bảo Lai nói với Xá Lợi Phất:

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát có ba mươi hai báu:

1. Tâm không dính mắc ái dục. Tức là nhẫn nhục không thể cùng cực.

2. Không khởi ngã, chẳng phải ngã, cũng không có chỗ tạo tác. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

3. Không nhớ nghĩ đến tất cả thiện ác. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

4. Đối với tất cả, tâm ý không hận thù. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

5. Không trút giận dữ cho mọi người. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

6. Không ôm ấp nhớ nghĩ việc ác của người khác. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

7. Cũng không quấy nhiễu và trói buộc người khác. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

8. Không chơi đùa ở trong đại hội. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

9. Tự bảo vệ chính mình và cũng bảo vệ thân thể người khác. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

10. Cấp dưỡng và bảo vệ cho người nghèo cùng, nhưng không hy vọng được báo đáp lại. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

11. Tự chế ngự mình, không theo ác tri thức. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

12. Đối với bản thân và người khác không có ý ái dục. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

13. Không khởi các tưởng, không nhớ nghĩ tốt xấu, dù chỉ một khoảng khảy móng tay. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

14. Giữ gìn công đức trang nghiêm thân tướng. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

15. Tin việc làm tốt, không lìa tam muội. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

16. Luôn giữ gìn miệng, để không nói dối. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

17. Tâm ý trong sạch. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

18. Gắn chặt với Thiện tri thức, đời đời luôn gần nhau. Ở chỗ khác, không nói về lỗi lầm của vị ấy. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

19. Tự so với người khác, nếu họ có ác thì mình cùng có ác. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

20. Nhớ nghĩ không có tà, tà tức là giác. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

21. Tâm nhu nhuyến, ý điều hòa. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

22. Bảo vệ người khác, khiến cho tâm người ấy, không khởi ác nữa. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

23. Người được sinh lên Cõi Trời thì phải dạy dỗ hướng dẫn các Trời. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

24. Sinh lên Cõi Trời hay trên thế gian đều dạy hai đạo, chứ không dạy ba đạo. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

25. Đầy đủ các thứ tốt. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

26. Được âm thanh như tiếng Phạm Thiên. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

27. Giải thoát dâm dật, giận dữ, si mê. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

28. Không tưởng nhớ đến các sắc và danh tiếng. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

29. Không dính vào công đức đã làm ra, chỉ muốn khởi lên các pháp. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

30. Hàng phục các ngoại đạo. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

31. Đã thoát khỏi mọi bệnh tật. Đấy là nhẫn nhục không thể cùng cực.

32. Đầy đủ pháp của Chư Phật, khiến không ngộ nhận và tổn thương.

Đấy là ba mươi hai việc báu, không thể cùng cực.

Lại nữa, này Xá Lợi Phất! Lại có ba mươi ba việc được nhập vào là báu:

1. Muốn nhập vào âm hưởng, muốn nhập vào quán, quán không chỗ quán. Đó là báu.

2. Muốn nhập vào tâm, lìa tâm. Đó là báu.

3. Đối với tâm không chủ tể. Đó là báu.

4. Muốn nhập vào thân cầu thoát, vốn không thoát. Đó là báu.

5. Muốn nhập vào mười hai nhân duyên, không có trụ. Đó là báu.

6. Muốn nhập vào không đứt, lìa đối với không đứt. Đó là báu.

7. Muốn nhập vào vô thường, thấy vô thường là vô hình. Đó là báu.

8. Muốn nhập vào chủ vô danh, lìa đối với vô danh. Đó là báu.

9. Muốn nhập vào vắng lặng, không lìa khởi. Đó là báu.

10. Muốn nhập vào ba cõi, không lìa ba cõi. Đó là báu.

11. Thọ không chỗ để thọ. Đó là báu.

12. Muốn nhập vào quá khứ, vị lai, cũng vượt ra ngoài quá khứ, vị lai. Đó là báu.

13. Muốn nhập vào công đức, quán vốn không chủ tể. Đó là báu.

14. Muốn nhập vào cái không trong cái không không. Đó là báu.

15. Muốn nhập vào vô tướng, không khởi vô tướng. Đó là báu.

16. Muốn nhập vào nguyện, lìa nguyện. Đó là báu.

17. Muốn nhập không, lìa tưởng không. Đó là báu.

18. Muốn nhập vào tam muội, không có hợp.

Vì sao?

Vì pháp không có hai. Đó là báu.

***