Kinh Nguyên thủy
Phật Thuyết Kinh Vô Sở Hữu Bồ Tát
PHẬT THUYẾT
KINH VÔ SỞ HỮU BỒ TÁT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẦN MỘT
Tôi nghe như vậy!
Một thời, Đức Thế Tôn ngụ trong núi Tỳ Phú La thuộc thành Vương Xá, cùng với chúng Đại Tỳ Kheo trăm ngàn người vân tập đông đủ.
Lại có trăm ngàn các chúng Bồ Tát, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, các chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già… còn có các Thiên Tử nơi Cõi Dục, các Thiên Tử nơi Cõi Trời Tịnh Cư thuộc Cõi Sắc… trước sau vây quanh Đức Phật để nghe pháp.
Khi ấy, ở trong chúng hội có Bồ Tát tên là Vô Sở Hữu, quan sát thấy tâm của những Bồ Tát ở đây còn nhiều nghi hoặc. Người thì ăn năn về việc ác mình đã làm, người thì ở trong chỗ điên đảo, người thì bị chướng ngại về nghiệp, người bị chướng ngại nơi pháp và các chúng sinh bị nhiều chướng ngại ngăn che nên không thể hỏi Phật.
Bồ Tát Vô Sở Hữu vì muốn làm thanh tịnh mọi nghiệp chướng cho các chúng sinh nên định hỏi Phật. Bồ Tát lại quán xét trong các chúng ở đây có nhiều Bồ Tát muốn sám hối những lỗi lầm của mình đã tạo, mà trong tâm còn nhiều phiền muộn, nên không thể nghe pháp. Lại thấy các Bồ Tát do tâm còn nhiều lo sợ, hối hận, nên càng không thể nhất tâm lãnh hội giáo pháp.
Cũng thấy ro tâm hành của các vị ấy có nhiều phiền não, ưu tư, uế tạp về các sự khổ của sinh, lão, bệnh, tử, sự khổ do oán ghét phải gặp nhau, thương yêu mà phải xa lìa.
Những người như vậy đang muốn thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, nhưng bị vô số trói buộc như thế thì làm sao ở trong vô lượng kiếp tu tập hạnh Bồ Tát?
Đã bị trói buộc thì làm sao có thể giải thoát cho các chúng sinh?
Bồ Tát Vô Sở Hữu quán xét như vậy xong, liền suy nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép ta được thỉnh vấn, để cho tất cả chúng sinh trong pháp hội này, đã tạo các việc ác, đã nghi hoặc, sinh hối hận, khiến họ được xa lìa.
Lúc này, Đức Thế Tôn biết rõ tâm niệm của Đại Bồ Tát Vô Sở Hữu cùng các vị Bồ Tát hiện có, liền bảo Đại Bồ Tát Vô Sở Hữu: Này Bồ Tát Vô Sở Hữu! Như Lai cũng không vì các Bồ Tát mà giảng nói về chốn có cấu nhiễm, có tham chấp, có trói buộc, có hệ lụy, có sai phạm và nơi chốn sai phạm.
Vì sao?
Vì tất cả nơi chốn tham đắm, nơi chốn cấu nhiễm, nơi chốn trói buộc, nơi chốn chướng ngại, nơi chốn phạm tội, Bồ Tát đều đã siêu vượt lìa xa các tướng của chúng, hành không hòa hợp, các pháp không xen lẫn vì không thể nắm bắt, nên chứng đắc đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Như vậy, tất cả các pháp đều không bị trói buộc, đắm nhiễm, chấp trước, hệ lụy, sai phạm và thủ đắc, do đấy nên thanh tựu Nhất thiết chủng trí.
Này thiện nam! Chốn phát tâm của Nhất thiết chủng trí, chúng sinh không thể chứng đạt, ở trong nơi chốn ấy không có pháp nào có thể bị trói buộc, bị cấu nhiễm, bị đắm chấp, bị hệ lụy, bị chướng ngại, bị sai phạm, có thể đạt được và nhận biết về nơi chốn.
Này Vô Sở Hữu! Ông nên vì các Bồ Tát mà thưa hỏi. Như các vị Đại Bồ Tát không hề mệt mỏi, không hề uế trược, không hề đắm chấp, không bị trói buộc, không bị chướng ngại, như hư không, xa lìa tưởng chấp về hư không, dứt mọi chướng, nghi nên sớm thành tựu đạo quả bồ đề vô thượng và mở bày làm sáng tỏ chánh pháp ở mọi nơi.
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Sở Hữu được Đức Như Lai gia hộ, chỉ dạy về việc thỉnh vấn và dùng trí lực nơi tự thân mình, do ở nhiều trú xứ của Phật đã vun trồng các căn lành, nên đối với Trí tuệ Ba La Mật không còn nghi hoặc, Bồ Tát liền ẩn thân không hiện.
Bồ Tát hoàn toàn không tham đắm, mà nhằm để giáo hóa các vị Bồ Tát kia nên hiển bày các thứ phước đức, lại vì các chúng sinh tâm tham đắm, các chúng sinh do chấp giữ nên che lấp các hành nơi tướng, các chúng sinh xa lìa tri thức thiện, gần gũi với hàng tri thức xấu ác.
Đối với các Bồ Tát hiện có ở đây, Bồ Tát Vô Sở Hữu do nhận biết tất cả các pháp đều không thể nắm bắt, nhằm khiến họ không còn tham chấp mà được giác ngộ, tức thì đem vô so các loài hoa quý, hoặc các thứ hoa ở dưới nước, các loại hoa trên mặt đất, hoa làm bằng vàng bạc, tung rải khắp để cúng Phật, với tâm chí thành hoan hỷ thù thắng, vi diệu, khiến cho các chúng sinh cũng vui mừng.
Bồ Tát tán thán Đức Thế Tôn rồi dùng kệ hỏi:
Bồ Tát đến nơi đâu
Người nào là cha mẹ
Dừng nghỉ ở chốn nào
Những ai là quyến thuộc?
Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Chốn hành dũng mãnh không
Cha: Phật, mẹ: Trí tuệ
Tháp Phật là chốn trụ
Bồ Tát là quyến thuộc.
Hành sáu Ba la mật
Tâm giác là cha mẹ
Tam muội là trụ xứ
Các phước là quyến thuộc.
Bồ Tát Vô Sở Hữu nghe kệ này xong, tâm rất vui mừng, tùy thuan, lại dùng kệ hỏi Đức Thế Tôn:
Nhất thiết trí vô ngại
Bậc khéo nói lời này
Con vui theo nơi đây
Lại xin hỏi Thế Tôn.
Lấy gì làm nhân duyên
Dùng trí phương tiện nào
Pháp gì được chứng đắc
Biết rõ được những gì?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Duyên bồ đề dũng mãnh
Phương tiện độ chúng sinh
Chứng được các pháp không
Trí ấy rõ bồ đề.
Bồ Tát Vô Sở Hữu nghe kệ xong, tâm rất vui mừng, tùy thuận, lại dùng kệ tán thán Phật và hỏi:
Nhất thiết trí vô ngại
Bậc khéo nói lời này
Con vui theo nơi đây
Lại xin hỏi Thế Tôn.
Làm sao không đọa ác
Nơi nhà lửa đáng sợ
Bỏ tất cả cõi ác
Mau đến các cõi thiện?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Không tạo mọi tội lỗi
Vì thế bỏ đường ác
Thường thực hành chánh pháp
Nhờ vậy đến cõi thiện.
Bồ Tát Vô Sở Hữu nghe kệ xong, hết sức vui mừng, tán dương, lại dùng kệ hỏi:
Nhất thiết trí vô ngại
Bậc khéo nói lời này
Con vui theo nơi đây
Lại xin hỏi Thế Tôn.
Vì sao gây nhiều tội
Kẻ vô trí tạo tác
Tất cả mau dứt trừ
Diệt sạch không còn sót?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Chúng sinh cầu giải thoát
Đều phát nguyện bồ đề
Các tội đều tận diệt
Chẳng thủ đắc bồ đề.
Bồ Tát Vô Sở Hữu nghe kệ xong tâm tùy thuận, tán thán, lại dùng kệ ngợi khen và hỏi:
Nhất thiết trí vô ngại
Bậc khéo nói lời này
Con vui theo nơi đây
Lại xin hỏi Thế Tôn.
Duyên gì nhiễm đắm ái
Luân hồi trong khổ não
Khi thành tựu bồ đề
Đều dứt sạch tất cả?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Nơi thường, lạc, ngã, tịnh
Điên đảo chấp hư không
Đã giác ngộ chân thật
Khát ái đều dứt sạch.
Không khát ái, ngã mạn
Bình đẳng như hư không
Không trụ ở trong ngoài
Nên đạt chỗ vô đắc.
Bồ Tát Vô Sở Hữu nghe kệ xong, tâm tùy thuận, vui mừng, lại dùng kệ hỏi:
Nhất thiết trí vô ngại
Bậc khéo nói lời này
Con vui theo nơi đây
Lại xin hỏi Thế Tôn.
Do tạo những nghiệp gì
Chủng tử ấy là sao
Hạng có nhiều tài sản
Thường hằng không cùng tận.
Bố thí cho tất cả
Thí xả không keo kiệt
Cho đầu, thân, của cải
Thảy đều đem bố thí?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Thường đối với Tam Bảo
Cúng dường không mệt mỏi
Ai đoạn được sinh tử
Dâng cúng người trí ấy.
Khởi phát tâm bồ đề
Vì chúng sinh an lạc
Mà nêu dẫn giác ngộ
Vì họ nói thọ dụng.
Tất cả nhất thiết trí
Vì chúng sinh giảng nói
Do đó có tài vật
Không bao giờ dùng hết.
Tạo các việc như thế
Gieo hạt giống này rồi
Tất cả nơi sinh ra
Nhiều phước đức, của cải.
Thức ăn thô hoặc tế
Ăn xong tịnh như pháp
Nếu được áo quần mới
Trước nhường người, sau ta.
Cho nên sinh trong đời
Tất cả đều đầy đủ
Không cần thêm công sức
Mà của cải vô tận.
Do bố thí hoàn toàn
Mà không có keo tiếc
Đầu, mắt và tay chân
Đều đem cho hết thảy.
Bồ Tát Vô Sở Hữu nghe kệ xong, rất vui mừng tán dương, lại dùng kệ hỏi:
Nhất thiết trí vô ngại
Bậc khéo nói lời này
Con vui theo nơi đây
Lại xin hỏi Thế Tôn.
Làm sao lìa khổ não
Nơi thân, khẩu, tâm, ý
Làm sao có hình sắc
Thanh tịnh không cấu nhiễm?
Thế Tôn dùng kệ đáp:
Thọ trai giới đều đặn
Thường nói đủ về không
Biết tất cả đều không
Nhẫn chịu sự đánh mắng.
Thân khẩu cùng tâm ý
Cho nên không khổ não
Nên được sắc tối thượng
Chúng sinh đều yêu mến.
Bồ Tát Vô Sở Hữu nghe kệ xong tâm rất vui mừng, lại dùng kệ hỏi:
Những lời rất hay đã lược nói
Tất cả vấn đề được giải bày
Làm sao cho họ chuyên tinh tấn
Ở khắp mọi nơi không lười bỏ?
Làm sao cho họ chứng các thừa
Nơi thế gian cùng xuất thế gian?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Làm việc không khiếp sợ
Nơi tâm hành phân biệt
Trí tuệ và tinh tấn
Thường có trong các đời.
Bồ Tát Vô Sở Hữu lại dùng kệ hỏi:
Bậc đầy đủ các trí
Khéo nói những lời này
Con vui theo nơi đây
Xin hỏi Đức Thế Tôn.
Làm sao đạt được trí
Quyết định trong thế gian
Làm sao có được lực
Không ai chế ngự được?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:
Thường hỏi pháp Chư Phật
Không hủy báng chánh pháp
Cầu phương tiện thiện xảo
Nên họ được diệu trí.
Thường thí năm mùi vị
Cho chúng sinh vô úy
Do đó họ có sức
Không ai chế ngự được.
***