Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Xuất Sinh Nhất Thiết Như Lai Pháp Nhãn Biến Chiếu đại Lực Minh Vương

PHẬT THUYẾT KINH

XUẤT SINH NHẤT THIẾT

NHƯ LAI PHÁP NHÃN BIẾN CHIẾU

ĐẠI LỰC MINH VƯƠNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN BA
 

Nẵng mô la đát nẵng đát la dạ dã.

Nẵng mạc thất chiến noa phộc nhật la bá noa duệ, ma hạ dược xoa tế nẵng bát đá duệ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ tán noa, hạ nẵng, na hạ, bát tả, mạt địa, vĩđặc noan sa dã.

Y hê hề bà nga noan Hạ nẵng, hạ nẵng Hạ sa, hạ sa Na hạ, na hạ Bát tả, bát tả Vĩ đặc noan sa dã.

Nễ phộc nãi dần nại la, bổ nĩ đế Tát lật phộc đát ma nĩ đá Tát lật phộc đátma nhạ Ma hạ đế nhạ Tô lỗ, tô lỗ Bổ lỗ, bổ lỗ Hổ lỗ, hổ lỗ Cốt lỗ vãn, cốt lỗ vãn, ma hạ cốt lỗ vãn Cô nẵng trí, cô nẵng trí Thất ninh, thất ninh Chỉ ninh, chỉ ninh Khế ninh, khế ninh Kha kha, kha hế kha hế Cổ lỗ, cổ lỗ Tô.

lỗ, tô lỗ Củ lỗ, củ lỗ Đốt tra, đốt tra Đô la, đô la Hạ nẵng, hạ nẵng.

Bố đá địa bát để, A tố la bổ la, vĩ đặc phộc sa nẵng, ca la.

Ổ thô sáp ma cốt lỗ đà, ma hạ phộc la Đạt ma, đạt ma Ca la, ca la Chỉ lị, chỉ lị Củ lỗ, củ lỗ Hồng, phán tra.

Tô lỗ, tô lỗ Hồng, phán tra.

Hạ nẵng, hạ nẵng Hồng, phán tra.

Na hạ, na hạ Hồng, phán tra.

Hột lị duệ, hồng, phán, phán, phán, phán, sa phộc hạ Phụng Thỉnh Mật Ngôn:

NAMO RATNA TRAYĀYA.

NAMAḤ ŚCAṆḌA VAJRA PĀṆĀYE MAHĀ YAKṢA SENAPATĀYE.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ CAṆḌA HANA DAHA PACA MATHA.

VIDHVAṂSAYA.

EHYEHI BHAGAVAN HANA HANA HASA HASA DAHA DAHA.

PACA PACA VIDHVAṂSAYA VIDHVAṂSAYA.

DEVĀNĀṂ INDRA PŪJITE.

SARVA ATMA JITA SARVA DHVAJA MAHĀ TEJA TURU TURU.

BHURU BHURU HURU HURU KURU KURU KURBAṂ KURBAṂ MAHĀ KURBAṂ GUṆATI GUṆATI SINI SINI KINI KINI KHINI KHINI KHAKHA KHAHI KHAHI GURU GURU TURU TURU KURU.

KURU TUṬṬA TUṬṬA DHURA DHURA HANA HANA BHŪTĀDHIPATI ASURA PŪLA VIDHVAṂSANA KARA.

UCCHUṢMA KRODHA MAHĀ BALA DHAMA DHAMA KARA.

KARA KĪRI KĪRI KURU KURU HŪṂ PHAṬ.

TURU TURU HŪṂ PHAṬ.

HANA HANA HŪṂ PHAṬ.

DAHA DAHA HŪṂ PHAṬ.

AGRIYE HŪṂ PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ đà la, đà la đà la, đa la dã đà la dã, hồng,phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ DARA DARA DARA DARĀYA DARĀYA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ phộc la, tỷ hạ la tỷ hạ la, mãn đà mãn đà, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA VIHĀRA VIHĀRA BANDHA BANDHA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ phộc la, ca la ca la, thân na thân na, hồng phán tra.

Trừ Diệt Chư Chướng Mật Ngôn:

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA KARA KARA CCHINDHA CCHINDHA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ phộc la, khắc kha khắc kha, nẵng xá dã nẵng xá dã, tát lật phộc chỉ la vĩ sương, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA KHAḌGA KHAḌGA NĀŚĀYA NĀŚĀYA SARVA KĪLA VIṢĀṂ HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ phộc la, đà ca đà ca, nhạ la nhạ la, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA DHAKA DHAKA JARA JARA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ phộc la, a ca lật sái dã, a ca lật sái dã, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA ĀKARṢĀYA ĀKARṢĀYA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, tất đam phách dã, tất đam phách dã, mô hạ dã mô hạ dã, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA STAṂBHĀYA STAṂBHĀYA MOHĀYA MOHĀYA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ phộc la, nhập phộc la nhập phộc la, bátla nhập phộc la, bát la nhập phộc la, nễ tỳ dạ nễ tỳ dạ, nễ ba dã nễ ba dã, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA JVALA JVALA PRAJVALA PRAJVALA ĀDITYA ĀDITYA DIPĀYA DIPĀYA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ ma la, đát tra đát tra, đát noa dã đát noa dã, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA TAṬṬA TAṬṬA TAṬṬĀYA TAṬṬĀYA HŪṂ PHAṬ.

Án. Phộc nhật la cốt lỗ đà, ma hạ phộc la, hạ nẵng hạ nẵng, đà la dã đà la dã, bát tra bát tra, bát tra dã bát tra dã, mô hạ dã mô hạ dã, hồng phán tra.

OṂ VAJRA KRODHA MAHĀ BALA HANA HANA DARĀYA.

DARĀYA PAṬṬA PAṬṬA PAṬṬĀYA PAṬṬĀYA MOHĀYA MOHĀYA HŪṂ PHAṬ.

Án. Tôn phách, ninh tốn phách, hồng, ngật lị hạ noa, ngật lị hạ noa, hồng.

Ngật lị hạ noa, bá dã hộc. Bà nga vãn, vĩ nễ dã la nhạ, hồng phán tra, sa phộc hạ.

OṂ SUṂBHA NISUṂBHA HŪṂ GṚHṆA GṚHṆA HŪṂ GṚHṆA APAYA HOḤ BHAGAVAN VIDYA RĀJA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ.

62 vị Trì Kim Cương đó ở tất cả thời, mật làm hộ trì. Nếu có người thọ trì, đọc tụng Đà La Ni này cho đến Thiên Hỏa Lửa Trời vẫn có thể chế phục được, người chết sống lại, hay chống được oan ma, cầu xin con đều được.

Nếu hay chia bày đất ấy. Lấy một bụm nước, dùng Đà La Ni chú vào thì hay giải được độc của tất cả rắn, rết… người mang thai đều được an ổn, xa lìa các khổ não, tất cả chỗ làm đều được thành tựu, tất cả Chân Ngôn cũng được thành tựu. Nếu có người hay thọ trì Kinh này sẽ được đại an lạc.

Bấy giờ I Xá Nẵng Bộ Đa Chủ Īśana Bhūtādhipati, vô số câu đê Thiên Chúng đem các Chúng Đẳng tự vây quanh mình ở trong Mạn Noa La ấy, khởi đỉnh lễ dưới chân Kim Cương Thủ Bồ Tát rồi bạch với Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng:

Thánh Giả! Nay hãy vì chúng tôi mà nói Đại Lực Bất Không Thành Tựu Vô Lượng Dũng Mãnh Lực Đà La Ni này. Chúng tôi rất yêu thích, cho đến Phạm Vương Brahma rāja, Đế Thích Thiên Indra deva, A Tu La Asura cung kính lễ bái.

Dược Xoa Yakṣa, Lạc Khất Xoa Rākṣasa, Phệ Đát Noa Vetaḍa, Ca Tra Bố Đát Nẵng Kaṭapūtana, Ổ nẵng Ma Unmāda đều khiến bị khủng bố, hoặc đánh hoặc giết, điều phục chúng ấy. Khiến cho Chìa khóa khóa Môn Quan cửa nẻo đều hư rới không dư sót. Mạn Noa La Chủ ấy hay làm xong tất cả mọi loại sự nghiệp.

Lúc đó Chúng Đẳng ấy xưng dương tán thán Bộ Đa Chủ rằng: Lành thay! Lành thay Bộ Đa Chủ! Ông hay vì các chúng sinh mà hỏi Đức Như Lai Trì Kim Cương như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Kim Cương Thủ dùng chày Kim Cương ném bánh xe Tự Tại Tự Tại Luân. Thời Kim Cương ấy mau chóng giáng xuống trụ trong hoa sen Kim Cương, liền nhập vào Du Già Quán. Tất cả Mạn Noa La Chúng nhìn thấy vị Đại Phẫn

Nộ, toàn thân có rắn độc quấn. Nếu muốn nhiếp phục tất cả Ma Chúng trong Mạn Noa La ấy thì nên vào Tam Ma Địa này. Ấy là vào Nhất Thiết Chúng Sinh Đại Bi Tam Ma Địa, Quang Diễm Phổ Chiếu Tam Ma Địa, Kiến Pháp ái Lạc Tam Ma Địa, Hiện Nhất Thiết Ma Vương Quốc Thổ Tam Ma Địa, Ấn Tướng Tam Ma Địa, Hiện Nhất Thiết Chúng Sinh Quốc Thổ Tam Ma Địa, Bất Động Tam Ma Địa, Pháp Ái Tam Ma Địa, Nhất Thiết Pháp Hiện Tiền Tam Ma Địa, Đại Lực Tam Ma Địa.

Nhập vào Tam Ma Địa của nhóm như vậy. Lúc muốn nhập vào sẽ có vô số câu chi na dữu đa trăm ngàn Ma Vương tự sinh khủng bố, tự nhìn thấy mình bị Đại Lực Minh Vương Mahā bala Vidya rāja cột trói. Chúng Ma ấy liền lớn tiếng khóc lóc giống như bị Kiếp Hỏa đến thiêu đốt, tự thân mệnh không thể chạy thoát.

Chúng ấy liền đến nơi Kim Cương Thủ Bồ Tát ngự, báo với Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Thánh Giả! Nguyện xin Ngài hãy nhìn vào mà thương xót cứu hộ cho con.

Hỡi Đấng Thế Tôn! Con rất đau khổ! Đại Lực Minh Vương đã cột trói con, dùng roi đánh đập rất đau đớn khiến cho mất mạng trong phút chốc.

Nguyện xin hãy cứu giúp! Khi đó Kim Cương Thủ Bồ Tát từ Tam Ma Địa ấy đứng dậy bảo với tất cả bốn chúng đẳng trong Mạn Noa La rằng: Đây là Thắng Đại Phước Đại Uy Đức đại phẫn nộ.

Như thị! Như thị Thế Tôn! Đây là đại phước, là đại uy đức, là đại phẫn nộ.

Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát ngoái nhìn Mạn Noa La Chúng, mắt như Sư Tử uy đức tự tại, vì Y Xá Nẵng Thiên Bộ Đa Chủ nói Pháp Đại Lực Minh Vương Mạn Noa La là: Thánh Giả! Nếu có người vào trong Đại Phẫn Nộ Man Noa La này liền hay thành tựu tất cả sự nghiệp, Bản Mệnh không bị chết yểu, mau lìa tất cả bệnh ác ràng buộc thân, chẳng sinh vào Ma Giới, tất cả chúng sinh nhìn thấy đều vui vẻ, lại hay mau lìa tất cả oan gia.

Về sau tất cả Chân Ngôn giáo pháp đều được thành tựu, lại hay thành tựu tất cả phẫn nộ, được tất cả phước trong quán đỉnh mà trang nghiêm cát tường.

Lúc đó, trước hết an bày Đại Phẫn Nộ Man Noa La này, niệm Kinh này một vạn biến để được cảnh giới lành Thiện cảnh giới, được thấy Man Noa La Giáo Chủ này ấn khả. Sau đó mới học Chân Ngôn Đàn Pháp này.

Trước tiên nên nhịn ăn tám ngày, quy mệnh Tam Bảo, phát đại từ bi bồ đề tâm rồi y theo thời tác pháp thành tựu sự, đóng cửa oan gia, người chết sống lại.

Phẫn Nộ này có uy đức lớn hay khiến cho Đại Nghiệp Ma Vương Quy Y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng Chúng huống chi tất cả ác ma, quỷ mỵ chẳng thể trừ diệt được sao?

 Đại Lực Minh Vương này. Nếu có người thọ trì liền hay giáng phục tất cả oan ma, tất cả Dược Xoa Yakṣa, Lạc Khất Xoa Rākṣasa, Tất lị Đá Preta, Yết Tra Bố Đát Nẵng Kaṭapūtana, Noa Nghê Ninh Ḍākiṇī, Sa Dạ Cchāya, Tát Hế La Śabara, Ca Ba Tam Ma La Apasmāra. Xa lìa tất cả sợ hãi, tất cả gông cùm xiềng xích, tất cả sự chết yểu, tất cả sự mê muội, tất cả bệnh tật cấm trói nghèo cùng.

chánh pháp này, nếu có người đọc tụng thọ trì sẽ được tất cả tài bảo không hề bị thiếu hụt.

Nếu Trời hạn hán thời ở trong bảy ngày đêm đọc tụng Đại Lực Minh Vương này thì Trời liền tuôn mưa lớn. Nếu Trời chẳng giáng mưa ắt khiến Thiên Chúng ấy bị phá hoại diệt hết. Chúng Long Vương của nhóm Yết Lị Sắt Noa Long Vương Kṛṣṇa Nāga rāja, Thiết Yết La LongVương Sāgara Nāga rāja, A Nan Đà Long Vương Ananta Nāga rāja khiến giáng mưa lớn. Nếu chẳng giáng mưa thời cũng khiến cho bị chết.

Lại nữa, Kinh này như trước y theo pháp. Ở bốn phương, bờ sông, bờ biển, bốn bên ao đầm, trước Tháp Xá Lợi dùng Kim Cương Thủ Đại Bồ Tát. Đem Chiên Đàn màu đỏ, hoa Ca La Vĩ La, hoa sen hồng, hoa A Đề Mục Yết Đá, lụa là, phướng, phan đều dùng màu đỏ. Bình chứa đầy nước thơm… như pháp y theo thời tinh tiến niệm tụng sẽ được tụ phước lớn.

Lại nữa hoặc dùng vỏ cây Hoa, viết Đại Lực Minh Vương Chân Ngôn này rồi đặt ở trên lá cờ có cắm lông Tinh Kỳ hoặc đem đội trên đầu thì khi vào trận sẽ không bị thương, đánh nhau sẽ được thắng, cung tên đao thương như thể vỏ của hoa, người nhìn thấy vui vẻ mà sinh yêu kính.

Bấy giờ Ma Vương Mārā rāja nhiễu quanh Đức Phật ba vòng theo bên phải, lui về một bên rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Vì sao có tên là Đại Lực?

Đức Phật bảo: Này Ma Vương! Như Lai có tên là Đại Lực. Pháp Tạng có tên là Đại Lực. Pháp có tên là Đại Lực. Phán Nhãn có tên là Đại Lực. Đại Thừa có tên là Đại Lực. Kim Cương Thủ có tên là Đại Lực.

Khi ấy Ma Vương khen Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ rằng: Lành thay! Lành thay Bí Mật Chủ! Từ nay trở đi, tôi chẳng dám gây não loạn tất cả người tu hành nữa.

Thề quy Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng Chúng.

Nguyện làm Ưu Bà Tắc Upāsaka: Cận Sự Nam thường giữ Tịnh Giới. Nguyện Thiên Giải Thoát làm cho tôi an vui. Tôi vì pháp chúng ủng hộ thọ trì Đại Lực Minh Vương với các chúng sinh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Ma Vương rằng: Nghiệp Chủng Kinh này. Nếu có người thọ trì đọc tụng liền được mau lìa mọi loại khổ não của địa ngục, quỷ đói, súc sanh, Diêm La Vương Giới. Thường được sinh về Cõi Trời, trải qua hai mươi ngàn kiếp thường làm Thiên Chủ Devādhipati. Khi hạ sinh xuống cõi Diêm Phù Đề lại làm Kim Luân Vương là Vua của bốn thiên hạ.

Vào đời vị lai lại được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Anuttarā samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại Lực Minh Vương này cho dù thanh tịnh hay chẳng thanh tịnh, ăn và chẳng ăn, tịnh giới hay chẳng tịnh giới đều không có chướng ngại. Chỉ trì Chân Ngôn này đều được sự mong cầu huống chi y theo pháp giữ tịnh giới ắt không có gì không theo được.

Khi đó Tôn Giả Tu Bồ Đề Subhūti cùng với chúng của mình đều đến ngồi dự hội, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Vì sao thọ trì Đại Lực Minh.

Vương Tâm Đà La Ni này mà được giải thoát?

Đức Phật bảo: Này Tu Bồ Đề! Ông hãy hỏi Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ.

Thời Tu Bồ Đề liền bạch với Kim Cương Thủ rằng: Thưa Bí Mật Chủ! Vì sao thọ trì Đại Lực Minh Vương Tâm này?

Sẽ được quả nào?

Kim Cương Thủ nói: Được thương khố tràn đầy. Áo mặc bên trên Y Thượng.

Phục, vàng, bạc, châu báu, voi, ngựa, bò, dê… đều ban cho sự mong cầu Tu Bồ Đề hỏi: Có quả báo rộng lớn như vậy ư?

Kim Cương Thủ đáp: Tu Bồ Đề! Như thị! Như thị! Cho đến dứt hết nghiệp báo phiền não của chúng sinh. Vì trụ công đức nên đến nẻo công đức của A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Tu Bồ Đề nói: Lành thay! Lành thay Kim Cương Thủ! Dùng tướng bí mật, mọi loại trang nghiêm có đại trí lực quán đỉnh biện tài. Được vô tướng thí, đại giới, đại trí tuệ, đại phước, đại lực, đại uy đức, đại công đức đỉnh. Đại Lực Minh Vương Kinh này được Chư Phật mười phương đồng đến quán đỉnh.

Thưa Kim Cương Thủ! Uy Đức của Kinh này là các Như Lai xoa đỉnh thọ ký được an vui lớn. Đà La Ni này. Hoặc ở sườn núi, vách đá, đồng trống, trũng nước, hồ, sông đào, ao, đầm… thọ trì đọc tụng sẽ mau xa lìa tất cả sự đáng sợ.

Khi ấy Kim Cương Thủ Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Nếu có người trì lại vì kẻ khác diễn nói thì thọ mệnh một trăm tuổi không có các hoạnh khổ.

Kim Cương Thủ lại bạch rằng: Thế Tôn! chánh pháp này được phước như vậy.

Nên gọi tên thế nào?

Lại thọ trì ra sao?

Đức Phật bảo: Này Kim Cương Thủ! Kinh này có tên là Xuất Nhất Thiết Như Lai cũng có các tên là Pháp Biến Chiếu, Pháp Nhãn, Nhất Thiết Thành Tựu Nghĩa, Nhất Thiết Như Lai Pháp Vân, Tận Nhất Thiết Nghiệp Chướng Tổng Trì, Thành Tựu Nhất Thiết Minh Vương, Bát Nhã Ba Đa Mật Đa, Nhất Thiết Như Lai Tối Sơ Pháp Giới, Đại Lực Minh Vương.

Này Kim Cương Thủ! Nếu có người được nghe chánh pháp này, hay thọ trì đọc tụng, tô vẽ, cúng dường sẽ được công đức như cúng dường Chư Phật quá khứ hiện tại vị lai, Tháp Xá Lợi toàn thân của Đức Thế Tôn.

Kim Cương Thủ nói: Lành thay! Lành thay! Đức Phật nói công đức biến hóa trang nghiêm của chánh pháp vi diệu thâm sâu. Con sẽ thọ trì.

Đức Phật bảo: Kim Cương Thủ! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì chánh pháp này thì các nghiệp chướng của người ấy nhiều như cây bên bờ sông cũng đều mau chóng phá hoại hết. Nên dùng dầu thơm, hương đốt, mọi Diệu Hoa, mọi loại phướng phan… mà tác cúng dường liền được tạng phước đức rộng lớn vô lượng vô biên, xa lìa các chướng nạn.

Nếu thọ trì, đọc tụng, giải nói Địa của Kinh này thì người ấy sẽ được các hàng Trời, Rồng, A Tu La, Càn Đạt Bà, tất cả Người Trời thường thủ hộ cúng dường. Tất cả Ma Vương chẳng dám làm trái ngược.

Đại Lực Minh Vương Tâm này, nếu thường nhớ niệm liền được tám Bồ Tát với các Như Lai, các hàng Đại Thần Tiên, Trời, Người, Long Vương, A Tu La, Càn Đạt Bà… xưng dương tán thán.

***