Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Xuất Sinh Vô Biên Môn đà La Ni

PHẬT THUYẾT KINH

XUẤT SINH VÔ BIÊN MÔN ĐÀ LA NI

Giảng giải: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trí Nghiêm, Đời Đường
 

PHẦN MỘT
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời Đức Phật trụ ở Tinh Xá Đại Lâm tại Tỳ Xá Ly Vaiśāli cùng với Chúng Đại Tỳ Kheo gồm bốn mươi hai ức trăm ngàn người đến dự, Bồ Tát Ma Ha Tát gồm mười ức người.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn tự nghĩ Mạng Hành nghiệp báo hiện tại, sau ba tháng nữa sẽ Bát Niết Bàn Parinirvāṇa: Nhập vào Niết Bàn, liền bảo Trưởng Lão Đại Mục Kiện Liên Mahā maudgalyāyana: Ông nên báo khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới này, hết thảy Sa Môn Śramaṇa, người cầu ba thừa đều đến tụ hội tại tinh xá Đại Lâm này.

Lúc đó Mục Liên kính nhận sự dạy bảo của Đức Phật, dùng sức thần thông, khoảng một niệm đến đỉnh núi Tu Di, phát âm thanh lớn, khiến cho hết thảy chúng sinh trong ba ngàn đại thiên Thế Giới này thảy đều nghe biết, rồi nói Tụng là:

Tất cả các Thế Giới

Khắp Phật Tử nên nghe

Nay Phật tuôn mưa pháp

Ai thích đều nên đến.

Khi ấy, Mục Liên nói Tụng này xong, có bốn mươi hai ức trăm ngàn Tỳ Kheo đi đến Tịnh Xá.

Thời Trưởng Lão Xá Lợi Phất Śāriputra tác lời niệm này: Nay ta cũng sẽ dùng sức thần thông khiến cho hết thảy Sa Môn trong các thôn xóm đều tụ hội đến chỗ này.

Tác niệm này xong, liền hiện thần thông thời có ba mươi ức trăm ngàn Sa Môn đến tụ hội tại tinh xá, cúi lạy bàn chân của Đức Phật rồi lui ra, ngồi một bên.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, Ly Nhất Thiết Ưu Bồ Tát, Ly Chư Cảnh Giới Bồ Tát, Phong Biện Vô Tận Bồ Tát, Khí Chư Cái Bồ Tát, Bất Không Kiến Bồ Tát, Cứu Ác Thú Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát…

Này thiện nam tử! Ông đến hằng hà sa đẳng các Thế Giới của Phật ở mười phương, trong đó: Hết thảy Bồ Tát Nhất Sinh Bổ Xứ, Bồ Tát bất thoái chuyển, Bồ Tát được vô sinh pháp nhẫn… báo khắp khiến cho tụ hội tại tinh xá Đại Lâm Thời các Bồ Tát nương theo Thánh Chỉ của Đức Phật, đều tùy theo nơi đi đến các Thế Giới kia.

Có tám mươi ức trăm ngàn Bồ Tát Nhất Sinh Bổ Xứ, ức trăm ngàn Bồ Tát bất thoái chuyển, ba mươi ức trăm ngàn Bồ Tát vô sinh pháp nhẫn, sáu mươi ức Bồ Tát Tịnh Ý Giải Thoát… nhóm Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy đều đi đến tập hội.

Lại có Bồ Tát mới phát tâm với các hàng Bồ Tát ứng pháp khí chẳng thể tính đếm, đều cùng với thừa đồng loại, nương theo uy thần của Phật, đều từ cõi nước của mình, nương theo hư không đi đến, làm lễ Đức Phật rồi lui ra, trụ một bên.

Bấy giờ, Xá Lợi Phất thấy các Bồ Tát với phẩm loại sai biệt, Thế Giới chẳng đồng đều, nhưng cùng nhau nương theo hư không đến tụ họp thì tâm sinh niệm nghi ngờ là dùng thần lực, công đức của Như Lai để đi đến ư?

Lại vì duyên nào mà đi đến nơi này?

Nay sẽ hỏi Đức Phật để khiến cho các chúng Bồ Tát trong Hội này, nghe điều Đức Phật đã nói, ắt đều trừ nghi hoặc, được như hằng sa biện không có ngăn ngại, nơi các Như Lai nghe pháp, thọ trì không có nghi ngờ, không có quên mất, cho đến A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Anuttara samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Lại khiến cho mau được bốn loại pháp môn thanh tịnh không có cùng tận.

Nhóm nào là bốn?

Ấy là: Chúng sinh thanh tịnh, pháp môn thanh tịnh, biện thuyết thanh tịnh, khen Phật Thổ thanh tịnh.

Lại được bốn loại pháp diệu hảo.

Nhóm nào là bốn?

Ấy là: Thân tướng diệu hảo, khẩu tướng diệu hảo, ý tướng diệu hảo, phương tiện diệu hảo.

Lại được ngộ nhập bốn Đà La Ni Môn.

Nhóm nào là bốn?

Ấy là: Thọ Trì Vô Tận Đà La Ni Môn, Thông Đạt Thâm Pháp Đà La Ni Môn, Thiện Nhập Chúng Sinh Chư Căn Phương Tiện Đà La Ni Môn, Phổ Năng Phân Biệt Thiện Ác Nghiệp Báo Đà La Ni Môn.

Khi ấy, Xá Lợi Phất đem sự nghi ngờ này, như điều đã niệm, như điều đã nghĩ ấy, bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào là Động Niệm Giác Quán của Bồ Tát?

Thế nào là trí tuệ thanh tịnh, vô lượng quyết định chọn lựa của Bồ Tát?

Nguyện xin Đức Như Lai vì con tuyên nói

Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay Xá Lợi Phất! Nay ông vì muốn lợi ích an vui cho vô lượng chúng sinh, thương xót Người, Trời khiến cho thọ nhận khoái lạc. Nay hỏi Như Lai nghĩ như vậy.

Này Xá Lợi Phất! Ông vì muốn khiến cho Bồ Tát sơ học ngộ hiểu pháp sâu xa, mau được vô lượng biện tài, phương tiện. Mau thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Ông hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ! Nay Ta vì ông phân biệt giải nói.

Xá Lợi Phất nói: Thưa vâng! Bạch Đức Thế Tôn! Con nhận sự dạy bảo mà lắng nghe.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Nếu các Bồ Tát cầu A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, cần phải phát tâm rộng lớn, không có chỗ nhiễm dính, không có lấy, không có bỏ, thọ trì tụng niệm Đà La Ni này.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói Đà La Ni là:

Tả đà thể đàm a noa ma noa a khê ma khê sa mạn đa mục khê sa đê la mê tảo mê dục cật đê nê lỗ cật đê nê lỗ cật đa, bát tỳ ế lợi mê lợi, hề lê khả lập tì khả lập báng nê khả lập bả tê sa lợi sa lợi la hòa đê hề la hề lê hề lễ lê hề la hề lễ lê chiến đề già hòa đê giả lê già la noa già la già la noa a giả lợi án đê án đa đê khả la noa a la noa a tán đê niết man nê niết mạt đá nê niết mục cật đê niết điện đê niết đà lê niết ha lê niết ha la phục ma lê niết hà la thiêu đà nê thiêu bạt nê thi la thiêu đà nê bát cát đê mạt nê bát cát đê nê bạt nê bà hòa phục bà hòa nê a tăng nghê na mê sai mê vi bô la bát tỳ tang cát tỉ noa điệt lê điệt điệt lê Ma Ha điệt điệt lê nê bát nê bà hòa phục bà hòa nê bà hòa nê Ma Ha bà hòa nê.

cật tra nê Ma Ha cật tra nê da xa hòa đê giả lê a giả lê ma giả lê sa ma giả lê điệt trà tán nê tốc tư thể đê a Tăng Già tỳ ha lê a Tăng Già nê ha lê sa mạn đa mục khê niết ha lê niết ha la dục cậtđê niết ha la phục ma lê niết ha la thiêu đà nê điệt trà tán nê tốc tưthể đê tảo mê tống ma hòa đê tư đãng mê tư thang ma hòa đê tưtham bà hòa đê chất trà tư thảng mê tư thang ma bát ti đê Ma Ha bát tỳ sa mạn đa bát tỳ tỳ ma la bát tỳ tỳ ma la la thấp mê sa mạn đa mục khê tát bà đát la nữ yết đê kha na xả đà bát la đê bà nê đà la ni nê đà nê đà la ni mục kháng nô tán nê tát bà bột đà bà sắt đê tát bà bột đà điệt sắt sỉ đê nê đà na ngao đê lê toa ha.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Nếu Bồ Tát muốn tu Đà La Ni này thì chẳng nên phân biệt hữu vi vô vi, cũng chẳng chọn lấy, cũng chẳng dính mắc, chăng tăng thêm, chẳng giảm bớt, chẳng thành chẳng hoại, chẳng hợp chẳng tan, chẳng sinh chẳng diệt.

Cũng chẳng nhớ các pháp ở quá khứ vị lai hiện tại, cũng chẳng gom chứa nhiếp lấy các pháp, chỉ nên suy nghĩ Chư Phật: Chẳng phải hình sắc, chẳng phải không có hình sắc, chẳng phải tướng, chẳng phải không có tướng. Bồ Tát chẳng nên đồng với nhị thừa chọn lấy sắc thân Rūpa kāya của Phật.

Tại sao thế?

Thanh Văn, Duyên Giác chọn lấy sắc thân của Phật có tướng trang nghiêm, ánh sáng chiếu diệu, do cha mẹ sinh ra nuôi nấng, ăn uống, nuôi lớn máu thịt, gân xương, bốn đại hợp thành, không có thường, hay biến đổi hư hoại, khổ não, chẳng trong sạch là sắc thân của Phật. Bồ Tát chẳng như thế.

Tại vì sao?

Thân của Như Lai không có tướng sinh ra, khắp vì chúng sinh, đối với tất cả pháp dùng chẳng phải là sáng tỏ Phi Minh Chiếu gom tập tư lương của Trí Jñāna, hiển hiện pháp thân Dharma kāya, tướng của hư không, tướng không có sinh. Pháp thân của Như Lai dùng tướng không có sinh để làm Sắc Uẩn Rūpa skandha.

Lại dùng nghĩa thâm sâu của tướng không có sinh là tất cả pháp thể. Song, các Bồ Tát chẳng ứng với Phi Sắc chẳng phải hình sắc chọn lấy tướng của Như Lai. Nếu dùng phi sắc chọn lấy tướng của Như Lai liền đồng với Thanh Văn nói là Phật nhập vào Niết Bàn vắng lặng, sắc thân đoạn diệt không có sinh trở lại nữa.

Bồ Tát chẳng như thế?

Tại vì sao?

Vì Thân của Như Lai không có tướng cùng tận, vì khắp chúng sinh, đối với các pháp dùng chẳng phải là sáng tỏ hiển hiện sắc thân. Dùng pháp tạo làm tướng, gom tập tư lương của phước Puṇya, dùng tướng không có cùng tận của sắc thân Như Lai. Đây là sắc uẩn không có cùng tận, thế nên các pháp cũng không có tướng cùng tận.

Nếu lại chúng sinh giới độ thoát chưa hết thì Như Lai thường hiện sắc thân không có cùng tận. Hoặc hiện thân Phật, hoặc thân Bồ Tát, thân Duyên Giác, thân Thanh Văn, thân Phạm Thiên, thân Đế Thích, thân Đại Tự Tại, thân Na La Diên.

Hoặc lại hiện thân: Quốc Vương, đại thần, Trưởng Giả, thương chủ, lươung y…

Hoặc hiện thân: Sa Môn, Bà La Môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.

Hoặc hiện thân: Trượng Phu, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ cho đến thân chim thú… đều vì độ thoát các chúng sinh cho nên phương hiện hiện bày.

Lại nữa, Bồ Tát chẳng nên đồng với Thanh Văn, Duyên Giác chấp lấy ba mươi hai tướng của Như Lai, nói là sắc thân của Phật từ cha mẹ sinh ra, thịt xương hòa hợp. Bồ Tát chẳng như thế.

Tại vì sao?

Thân của Như Lai như tướng hư không, không có tướng sinh, cho nên cũng chẳng phải là sáng tỏ vì khắp chúng sinh gom tập tư lương của trí, ở tất cả pháp hiển hiện pháp thân. Pháp thân Phật này không có tướng đã nhập vào sở nhập tướng, không có tướng cùng tận cho nên hiện bày ba mươi hai tướng, dùng nghĩa thâm sâu của tướng không có sinh, là tất cả các pháp thể.

Song, các Bồ Tát chẳng nên đồng với Thanh Văn, Duyên Giác, chọn lấy chẳng phải là tướng phi tướng của Phật, nói là Đức Phật nhập vào Niết Bàn vắng lặng, các tướng đều diệt, không có sinh trở lại nữa. Bồ Tát chẳng như thế.

Tại vì sao?

Thân của Như Lai không có tướng cùng tận, cho nên vì khắp chúng sinh, đối với tất cả pháp dùng chẳng phải là sáng tỏ hiển hiện sắc thân, dùng pháp làm tướng, gom tập tư lương của phước, dùng tướng không có cùng tận của sắc thân Như Lai cho nên ba mươi hai tướng dùng tướng không có cùng tận, tất cả các Pháp cũng không có tướng cùng tận.

Nếu chúng sinh giới độ thoát chưa hết thì Như Lai thường dùng các tướng trang nghiêm thân, tỏa ánh sáng hiền hiện, ở trong tướng ấy, lại hiện vô lượng các tướng kỳ lạ đặc biệt, tướng ấy như thế nào?

Ấy là Chư Phật với cõi nước ở mười phương, ở trong tướng ấy thảy đều ảnh hiện. Nếu có chúng sinh thấy nghe điều này, tin hiểu khai ngộ, nuôi lớn tâm bồ đề Bodhi citta. Đo đó, Bồ Tát chẳng nên dùng chẳng phải là tướng phi tướng chọn lấy Như Lai.

Lại nữa, Bồ Tát chẳng nên đồng với Thanh Văn, Duyên Giác chấp lấy tám mươi hạt giống của Như Lai, cho đến tướng diệt như trên đã nói. Nếu chúng sinh giới độ thoát chưa hết thì Như Lai dùng các vẻ đẹp tùy hảo nghiêm thân, tỏa ánh sáng chiếu diệu. Ở trong vẻ đẹp ấy lại hiện các tướng kỳ lạ đặc biệt không có cùng tận.

Tướng ấy như thế nào?

Ấy là: Ta Đức Phật mới phát tâm, thân làm Quốc Vương tên là Quang Minh được gặp thẳng Đức Nhiên Đăng Như Lai Dīpaṃkāra tathāgata thọ ký riêng cho ta, cho đến A tăng kỳ kiếp thứ ba, ở trong khoảng giữa, hết thảy Khổ Hạnh Duṣkara caryā mỗi mỗi đều hiện ở trong vẻ đẹp tùy hảo, nếu có chúng sinh thấy nghe điều này, tin hiểu khai ngộ, nuôi lớn tâm Bồ Đề.

Bồ Tát do điều này, chẳng nên chấp lấy tướng diệt của vẻ đẹp, cũng chẳng nghĩ đến gia tộc, quyến thuộc với giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, chẳng ải chẳng đến cũng không có chỗ đắc được, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thanh tịnh nghiệp thân khấu ý, cũng chẳng phải là quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải tự mình làm, chẳng phải vì người khác.

Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát này đầu tiên từ quán sát sắc thân với Uẩn Giới Xứ của Như Lai. Như vậy thành tựu, tức là nơi mà Chư Phật đã nghĩ nhớ đến, nhập vào pháp môn này.

Bấy giờ, Bồ Tát dùng pháp môn này tịnh tính bồ đề, hay biết pháp thân Bồ Đề Chân Tịnh Vô Thượng của Như Lai, là thể của pháp thân Như Lai, chẳng phải là cảnh giới mà các phàm phu đã hành, cũng chẳng phải là nơi mà nhị thừa, Bồ Tát mới học hay biết.

Tại sao thế?

Vì nhóm này dính mắc vào sắc thân, thể tướng với uẩn xứ giới cho đến tướng tốt mà tu hành. Nên biết quá khứ, Bồ Tát mới học dùng pháp môn này tịnh tính bồ đề, đều vì thương nhớ các chúng sinh, cho nên tu tập sắc thân, uẩn, giới, xứ… nên biết Bồ Đề do pháp môn như vậy thành lập.

Tại sao thế?

Vì dùng sắc thân này thuận theo pháp thế gian, chúng sinh nhân vào đây cúng dường Tam Bảo, tu tập sáu Ba La Mật của Bồ Tát, thực hành việc bốn nhiếp. Lúc đó, Bồ Tát dùng pháp môn này quay lại làm các pháp bên trong bên ngoài của thế gian, hoặc uẩn giới xứ, hoặc ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp cho đến hoặc làm cha mẹ, quyến thuộc, giới định tuệ uẩn, giải thoát giải thoát tri kiến uẩn.

Phàm các cỏ thuốc, hoa quả, Cam Lộ, trăm loại lúa đậu, lúa mạ… lợi cho chúng sinh cho nên phương tiện an lập. Nếu Bồ Tát từ câu đầu tiên sơ cú ngộ hiểu bồ đề, pháp thân thanh tịnh. Lại từ câu sau hậu cú an lập sắc thân. Nên biết tức là nơi mà người nhất thiết trí đã ấn khả.

Tại sao thế?

Vì chúng sinh phàm ngu kết tập nghiệp của thế gian, tham dính cái của ta Mama kāra: Ngã sở, chẳng rõ Chân Đế Paramārtha, thế nên chẳng xứng với tâm nhất thiết trí. Nhị thừa tuy có thắng nghĩa đế trí dùng cái thấy chẳng chính đúng phi chính kiến diệt mầm giống sinh tử cho nên cũng chẳng xứng với tâm nhất thiết trí.

Chư Phật Như Lai biết đầy đủ hai Đế: Thắng Nghĩa Paramārtha, thế tục Saṃvṛti satya, trí tuệ không có cùng tận, đầy đủ hạnh nguyện, được đại bồ đề. Lại nhập vào tam muội của tất cả căn lành, thế nên xứng với tâm nhất thiết trí.

Tại sao thế?

Vì chúng sinh phàm ngu, Thanh Văn, Duyên Giác với các Bồ Tát đã được phước thù thắng đều từ nơi mà công đức của Chư Phật đã đến. Nếu Như Lai thành Đẳng Chính Giác thì không có gì chẳng phải là sức của Xuất Sinh Vô Biên Môn Đà La Ni. Nên biết Kinh này là gốc của nơi mà tất cả căn lành đã sinh ra, là kho tàng gom chứa tất cả pháp môn, chủng tính không có dơ bẩn, siêu độ quân Ma.

Này Xá Lợi Phất1 Nếu các Bồ Tát nghe Kinh Xuất Sinh Vô Biên Môn Đà La Ni này thì đối với vô thượng bồ đề Agra bodhi đều chẳng chuyển lùi.

Tại sao thế?

Vì Kinh này hiển đủ chỗ hành của Chư Phật, khen ngợi công đức ấy, hay phá hoại nghiệp sinh tử của tất cả chúng sinh, hành pháp thức không có nhiễm.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói tụng là:

Các ngươi đừng ưa dính

Tất cả các pháp rỗng Śūnya: Không

Nơi Chư Phật bồ đề

Cũng đừng khởi phân biệt

Nơi bồ đề Niết Bàn

Tâm chẳng sinh nghi ngờ

Nếu hay tu hạnh Caryā này

Mau được Đà La Ni

Nghe Tu Đa La Sūtra: Khế Kinh này.

Tập Trí: Rỗng Śūnya: Không, không tướng Nirnimitta: Vô tướng.

***