Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Những Kinh Do Tăng Già La Sát Tập Thành

  

PHẬT THUYẾT NHỮNG KINH

DO TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP THÀNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Bạt Trừng, Đời Phù Tần
 

PHẦN BỐN
 

Bấy giờ Đức Thế Tôn có đôi chân như vậy: Bước đi bình an, đứng vững vàng không di động, cũng không lung lay rất vi diệu. Chân có ngón dài mịn màng, đủ trăm phước tướng, nhờ Ngài đã tu khổ hạnh, sau mới được như vậy, đi đến Đạo Tràng. Vì người đời nên muốn độ thoát cho họ, ai nghe tiếng của Ngài thì giống như tiếng của Long Vương, mắt lành không di động.

Đối với công đức đã làm của Tam Gia Tam Phật Chánh Đẳng Giác công đức gấp trăm ngàn lần, ngọc anh lạc vi diệu, ánh sáng không co gì sánh bằng.

Từ xưa đến nay Ngài có công đức như vậy, cho nên con cúi lạy nói bài kệ:

Ai niệm không hại được

Cũng lạy Như Lai đảnh

Nếu ai có niềm tin

Trong trắng rất mịn trơn

Lạy dưới chân Thế Tôn

Như Lai giải thoát chúng

Đó là người tối thắng

Cho nên quy y Ngài.

Bấy giới Đức Phật có tướng bánh xe như vậy, rất tròn cũng không có tạp uế, cũng không có thô lậu, thậm thâm, có bánh xe có ngàn cây căm, rất nhu hòa, thân thế đầy đủ, các căn không thiếu tạo sự nghiệp lớn, để thờ phụng bốn phương, tướng của Chuyển Luân Thánh Vương:

1. Đầy đủ cảnh giới.

2. Tâm không khiếp nhược.

3. Giống như A Tu Luân lấy tay che mặt trăng làm cho không có ánh sáng.

4. Giả như lúc chuyển pháp luân thì liền có ánh sáng lớn, giống như mùa xuân thì không có bụi bặm, trong hư không cũng không có mây che.

Bấy giờ vào lúc nửa đêm, không có kiết sử nguyệt bệnh mặt trăng phóng luồn ánh sáng lớn, cũng lại như vậy:

Chuyển Luân Thánh Vương vốn không có tướng của Đức Như Lai.

Bấy ngời liền nói bài kệ này:

Người đời thọ trăm tuổi

Có tướng chuyển luân này

Cũng như núi An Minh

Nhờ gieo phước nên được

Ngang nơi cung Đế Thích

Chư Thiên đều khen ngợi

Nếu ai biết điều này

Thảy đều có nhất tâm

Chi tánh rất kiên cố

Mặt trời đã chiếu sáng

Thường để mất cơ hội

Như hoa sen rộ nở

Đệ nhất không đâu bằng

Như Lai đã tu hành

Tuyên bố nay đã đến

Như Lai ứng chuyển luân

Thấy điều ấy một chút

Không ai hơn Đức Phật

Phóng hào quang khắp nơi

Độ khắp các chúng sanh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn du hành như thế này: Ngài đưa chân mặt đạp xuống đất thì động tác ấy không chậm cũng không mau, bước đi ngay thẳng cũng chẳng vội vàng giống như voi chúa bước đi vững vàng chẳng khác gì cả. Thân của Đức Thế Tôn không lay động, giống như vị Thiên Na La Diên Lục Sĩ Cõi Trời.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đối với người cao Ngài làm cho họ thấy mình là thấp, đối với người khiêm hạ, Ngài chỉ cho họ thấy mình là cao.

Những người có nhà nhỏ thì tự nhiên thành rộng lớn. Thân thế của Đức Như Lai chưa từng cúi xuống, bởi do đời trước Ngài không có tâm kiêu ngạo.

Các loại nhạc khí không đánh nhưng tự kêu, các loại côn trùng đều được an ổn, đều do đời trước Ngài đã tu hành từ tâm.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Ngài có đại thần diệu

Chỗ ở được sắc tốt

Nhờ Ngài bỏ kiêu mạn

Không ái dục vi diệu

Vô úy có đức này

Phá hoại kẻ can cường

Tối giác, tự giác ngộ

Trụ xứ, thọ hành báo.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có dấu chân như vậy: Có tướng bánh xe ngàn căm, hiện ra rất vi diệu, các căn đầy đủ, sắc đẹp diệu, không có ai sánh bằng, là bậc nhất trong loài người, sanh nhiều sự hoan hỷ. Tất cả đều do Ngài đã tạo phước trong trăm ngàn kiếp mà có. Ngài không có tâm thô lậu trừ khử dâm, nộ, sì.

Những việc làm của Ngài vốn không có dối trá, không có các điều ác, không tương ưng với si mê, không tạo hạnh si mê.

Ngài có danh tiếng như vậy, chí tánh ngay thẳng, việc làm không mong cầu, không ôm lòng hồ nghi, ý vốn đã diệt, trừ khử hy vọng mong cầu việc làm không khuyết lậu, tâm không có bỉ thử, công đức trùm khắp, đầy đủ thành tựu thập lực, trừ tất cả tai hoạn.

Bấy giờ nói bài kệ:

Tối thắng có đức này

Phân biệt hành địa nghiệp

Bánh xe hiện dưới đất

Nên tự quy y Phật

Các hạnh đã làm ra

Như mặt trời chiếu sáng

Tâm ý đã quan sát

Như dấu chân in đất.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có nụ cười như vậy: Nhờ làm nhân duyên như vậy, Ngài vốn tạo hạnh thương yêu các chúng sanh,, cho nên mới hiện ra nụ cười như vậy. 

Bấy giờ khi Đức Thế Tôn mỉm cười có sự nhu nhuyễn bậc nhất, tế sức vi diệu, thanh tịnh, ai nghe lọt lỗ tai đều hoan hỷ, thấy Phật mỉm cười, không có trần cấu, thanh tịnh không tỳ vết, là nhờ Ngài tu hành không nói lời hư dối, giống như hoa Ưu Bát Chiêm Bặc.

Có các thứ hương thơm Ngài tung rãi cam lồ, lời nói có các thứ ánh sáng, vi diệu đệ nhất, tâm có thể phân biệt được.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thân Ngài có sắc vàng ròng, giống như ba lớp núi cao vây quanh, Ngài sanh ở chỗ A Ca Nị Sất.

Ở cung Trời đó, những người có niềm tin, vâng theo lời giáo giới của Đức Như Lai, không hề vi phạm, dần dần trao truyền nhau, nên hoan hỷ đối với Đức Như Lai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vốn đã tu hạnh như vậy.

Khi ấy liền nói bài kệ:

Các màu sắc xanh vàng

Xuất từ thân Như Lai

Tướng giữa mày Như Lai

Đến A Ca Nị Tra

Miệng nói ánh sáng giới

Trời người đều cúng dường

Ba nhân duyên không bằng.

Lại đến chỗ Như Lai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có hào quang như vậy, đều là do bổn hạnh Ngài tạo ra nên phía sau thân Ngài có ánh sáng này, ánh sáng rất diệu thiện, giải thoát bậc nhất. Thân Ngài có hào quang, ai thấy cũng hoan hỷ.

Có các thứ ánh sáng, thân đeo ngọc Anh Lạc, các loại bụi bặm của La Hầu, A Tu Luân cũng không làm chứng ngại Ngài được, đã giải thoát ngũ kết, trừ khử ngu si.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hiện ra Cam Lồ, khiến cho chúng sanh gặp được mùi vị này, tự nhiên có thần túc, không thể nghĩ bàn được.

Khi ấy liền nói bài kệ:

Thân thể khéo giải thoát

Thập lực, có ánh sáng

Như Lai có thần túc

Anh sáng hơn mặt trời

Không bị ai trở ngại

Kẻ ngu không thể thấy

Thị hiện các chúng sanh

Con lạy ánh sáng Ngài.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đắp y như thế này: Không cao, không thấp, tùy thời đắp y, để diệt trừ cỏ ô uế, nguồn gốc của sanh tử. Ngài không mặc y phục vì để vui thích, đi đến chỗ nào đều hoan hỷ, vì có quả thật như vậy, cho nên y phục Ngài tươi sáng.

Tôn Giả Nan đà và các Tỳ Kheo ở bên Thế Tôn, đắp Y Tăng Già Lê, không ai có thể làm cho y của Như Lai dơ được. Khi ấy Tôn Giả Nan Đà khen là chưa từng có, nên đến bạch Đức Thế Tôn muốn biết cách đắp pháp y.

Đức Thế Tôn bảo rằng: Thế nào Nan Đà?

Nếu điều đó không phải là Đức Như Lai luôn luôn xuất thế làm sao trừ được ô uế, dâm, nộ, si, cho chúng sanh, làm cho vĩnh viễn chấm dứt không còn sót lại, rồi tùy theo họ mà dạy bảo.

Nhờ thành tựu công đức như vậy, cho nên gió bão mạnh cũng không làm cho y Ngài bay được, trần cấu không ô nhiễm được.

Bấy giờ liền nói kệ:

Y Như Lai đã đắp

Hoa sen không dính bùn

Hoặc gió bão thổi lên

Muốn y Như Lai động

Tự che cả thân hình

Y này cũng như vậy

Thế lực rất dữ dội.

Ai hơn đấng thập lực?

Bấy giờ Đức Thế Tôn khất thực các nhà hào quý giàu có như vậy: Không lựa chọn kẻ ty tiện, Ngài đều bình đẳng khất thực, không có tà mạng, không có cúi xuống mà ăn, không coi sao, bói quẻ, ngưỡng lên mà ăn, không nhận tín thí, bảo đến đằng kia để ăn, không xem bốn phương để kiếm ăn, không chú thuật huyễn hoặc để kiếm ăn, không cày cấy để kiếm ăn. Sở dĩ Ngài đi khất thực là để cứu tế chúng sanh, không có ý mong cầu, không tham trước sự ăn uống. 

Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn ăn, không phải vì để vui sướng, có sự nhiễm trước, quán nghiệp như vậy, mà thọ nhận đồ ăn của tín thí. 

Ngài cũng không tham trước, không dâm, nộ si, cũng không mê hoặc, trừ bỏ tâm mê hoặc, xả ly tâm nhiễm trước, không tương ưng với tâm nhiễm trước, nhằm xả lòng dục ái không làm trở ngại được, thường ái lạc tín thí, lấy thiền làm món ăn, cũng không có ngã tưởng, hoàn toàn xả ly khổ, thấy rõ phi nghĩa. Thân này chắc chắn sẽ kết thúc, xả ly ba việc, thanh tịnh không có dâm, nộ, si.

Vậy nay Ngài ăn như thế nào?

Vì muốn hiện rõ thân này là không bền chắc, cho nên thân là nơi trưởng dưỡng bệnh hoạn.

Ví như không có lửa hơi ấm nơi thân, thì phải bỏ thân này không sanh loạn tưởng, tung rãi cam lồ tu phạm hạnh để bệnh cũ chấm dứt, không tạo ra bệnh mới.

Vì vậy cho nên Đức Thế Tôn thọ nhận đồ ăn của tín thí để họ được quả báo, mong thân họ được an ổn, ủng hộ thế gian:

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Khất thực khắp các nhà

Ngài ở nơi viên quán

Không lựa ngon hay dở

Chúng không trở ngại Ngài

Muốn họ được chánh pháp

Như con ong hút hoa đồ ăn sáu vị

Không sanh ý khen chê

Trừ bỏ tâm tham ăn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có sàng tọa như bầy: Đó là ở trong hang núi, ngồi nơi đất trống, ở viên quán, bên cạnh nguồn suối, nơi các hoa quả sầm uất, vui thích không có chi sánh bằng.

Nơi không có người, mong cầu giải thoát, sống ở nơi đó, giải thoát các điều ác, cũng không có sự ngăn che, nơi con người không có đặt chân đến, không có sự sợ hãi, lìa bỏ sự đắm vào sắc, thường thích tịch tĩnh. Ngài thuyết pháp cho chúng sanh, nói rộng như trong Khế Kinh.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Cây cối sanh hoa quả

Phân biệt, thích nhàn tịnh

Nơi đó cầu giải thoát

Khi ở chỗ nhàn tịnh

Viên quán, hoa Mạn Na

Hoa xanh xanh rộ nở

Cho nên ở chỗ ấy

Không tiếng không loạn tưởng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng cỏ rải trên mặt đất, là không có trần cấu, không tham đắm trang sức, hết sức mịn, mềm, trơn, thiện sanh vi diệu. Nếu ai thấy hình của Ngài, ngắm mãi không chán, thảy đều quan sát, không cao không thấp, tư duy như vậy thay nhau nương tựa.

Danh sắc lục nhập hiện ra nơi Ngài không cùng tận, hoặc dùng cỏ rãi mặt đất, luôn luôn hàng phục chúng, cho nên trải cỏ để ngồi mà không có dục tưởng, lấy cỏ làm nệm, cũng không có kiết sử, thảy đều thanh tịnh.

Ngày xưa Chư Phật đã tạo công đức, cũng không nhiếp thủ, không tham trước, được chứng quả, đều đem hồi hướng, cũng không não hại làm chúng sanh ra cỏ kiết sử, tề chỉnh, không nhàu nhè, dựa vào chúng sanh cũng không bị ấm cái ngăn che, được tam muội chứng thông, nằm hông phái hữu sát đất.

Ngài ngủ nghĩ không lâu, liền ngồi dậy đi kinh hành, tu đạo. Nhờ vô giác tam muội cho nên hông bên phải của Ngài nằm sát đất, vì muốn hàng phục oán địch nên ngồi trên tòa sư tử, đắm vào loại áo tơ mịn năm màu. Hiện sắc không phải là Sa Môn chân thật, không nhiễm trước hình sắc mà tu hành phạm hạnh, dựa vào chúng sanh, cầu tâm giải thoát.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Chúng sanh không căn lành

Tâm đã tạo hạnh lành

Lành thay, đại pháp nghĩa

Nay đối chúng Như Lai

Nhờ công đức họ thích

Tâm vốn tự giác tri

Không có ai hơn Ngài

Lấy cỏ trừ ái dục.

Đức Thế Tôn sao gọi là biết rõ các căn?

Đó là ngày xưa Ngài tạo ra căn như vậy, khí vị tương ưng, vì đạo cho nên sanh căn này, hàng phục điên đảo, muốn sử các căn thuận dòng, tương ưng với sanh tử.

Các căn này khởi lên hạnh bất tịnh, nương vào các duyên khác.

Các căn này tham trước thế gian, cũng nhiễm trước dục lạc.

Các căn này khởi lên các thế lực, tất cả kiết sử hẫy hừng.

Các căn này xua đuổi thân lưu chuyển mãi không bao giờ dừng nghỉ.

Các căn này không thành tựu đại nghĩa.

Các căn này mê hoặc, trải qua các cảnh giới.

Các căn này giống như kiếm nhọn làm thương tổn thân mình, các căn này gây ra khổ não, các căn giống như ghẻ lở, chảy các kiết sử.

Các căn này giống như bệnh tật, không có sức lực.

Chúng không bao giờ nhàm chán, biết đủ, thường mong cầu không thôi.

Các căn này không bao giờ dừng nghĩ, luôn luôn khởi ra các kiết sử.

Các căn này giống như thuốc độc, không cắt đứt được gốc khổ.

Các căn này không nghe lời dạy bảo, cùng tương ưng với các điều ác.

Các căn này không giấu kín, bị cảnh giới gươm đao trói buộc.

Các căn này không được gìn giữ, khí vị không đầy đủ.

Các căn này không có tâm, trôi lăn theo cảnh giới, vì các căn này không tu hành, lửa dục đốt cháy mãi theo cảnh giới.

Các căn này có các khổ não rong chơi các cảnh giới khác làm cho tất cả thân tâm đều khổ.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Căn, ở các cảnh giới

Tâm thường bị đốt cháy

Như Lai dạy lành thay

Không có các căn ác

Giống như hòn sắt nóng

Bị điều ác chế ngự

Đưa đến chỗ an ổn.

Huống phải có cảnh giới?

Đức Thế Tôn làm sao để biết tâm?

Đó là tâm nương nơi cảnh giới sanh trưởng tăng ích.

Tâm ấy loạn tưởng, không định.

Tâm này giống như gió bão.

Tâm này không nhàm chán duyên ác, nên chiêu cảm tai ương.

Tâm này chạy xa giống như mộng tưởng.

Tâm này tham trước cảnh giới giống như con khỉ.

Tâm này làm các thứ tham trước tự nhiên, giống như cánh con chim khổng tước thường ngó lại bóng mình.

Tâm này rong chạy xa vời, tư duy tiền tài sự nghiệp.

Tâm này khởi ra các sự ngăn che, cũng như ngựa hoang không biết mệt mỏi.

Tâm này khó chế ngự chạy theo các cảnh giới.

Tâm này giống như vua thường làm theo ý mình.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Rất thâm diệu đệ nhất

Dạ Xoa, Tu Kiền Đạp

Họ được sự buông lung

Thế gian không ánh sáng

Tâm trí không hạn lượng

Ba đời không tự giác

Tự nhiên có niệm này

Ta làm ánh sáng pháp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn làm thế nào để tung rãi sự giác ngộ ở thế gian?

Đó là thế gian không có gì để nương tựa, tham đắm thân mình.

Đời này tâm không có chỗ nương tựa, tham đắm cảnh giới, đời này các nghiệp nướng tựa các thứ tà kiến như vậy.

Đời này đã tạo ra tự nhiên.

Đời này đọa vào đường tà, trôi lăn trong đường ác.

Đời này sống trong đường ác như con khỉ.

Đời này không có sự chiếu sáng, bị ngủ ấm che lấp.

Đời này mù lòa tăm tối không có con mắt trí tuệ.

Đời này bị đói khát, bị khát ái không biết chán.

Đời này bị đốt cháy, các thứ kiết sử trói buộc.

Đời này ít vị ngọt, giống như con ong hút hoa.

Đời này không thể nương tựa, sẽ đưa đến bại hoại.

Đời này là cuộc viễn du, cỡi lên xe mà đi.

Đời này bị trói buộc, phải sống trong sanh tử.

Đời này dẫn đến các thứ khổ não, sanh, già, bệnh, chết.

Đời này chẳng vi diệu, chắc chắn phải bại hoại.

Đời này không có sự cứu hộ, bị sự thống khổ bức bách.

Đời này chẳng phải do ta làm ra, chắc chắn phải bỏ mà đi.

Đời này là một bộ máy triển chuyển nương nhau mà tồn tại.

Đời này các thứ hành động đều dẫn đến ác xứ.

Đời này như chuyển hóa hiện ra sắc tượng.

Đời này là vô ích sanh ra các bậc bại hoại.

Đời này do hành động cẩu thả nên không thể nương tựa.

Đời này khó giác ngộ, không có cảnh giới.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Chúng sanh bị khổ não

Lấy trí tuệ cầu đạo

Dần dần được ích lợi

Nó chắc chắn bại hoại

Thấy thế gian không thật

Quán sát chỗ thân cận

Muốn yên thân mạng mình

Nên tịch diệt là vui.

Thế nào là trong đời này vượt qua khỏi con đường lầy lội?

Giống như hạt sen trong nước kia, trong lúc đó mầm mộng sinh ra dần dần lớn lên, nó cũng như vậy, năm vị đều chết để thức xứ Vãng Sanh, bị hành động hữu vi tạo ra, vây quanh, nhờ gió lửa mà thành, bị nước kiêu mạn tưới lên, bị chết, ngay ở khoảng giữa lại sanh ra mầm mộng.

Giống như mầm mộng của cây sanh ra, ở đây cũng như vậy, vì mầm mộng sanh ra cho nên chẳng phải đoạn diệt thường trú.

Giống như người trước tiên xem mầm ruộng, ở đây cũng vậy, vì chúng sanh ấy bị trói buộc, cho nên chẳng phải đoạn diệt mà hữu thường.

Giống như mặt đất bị gió thổi, ở đây cũng vậy, tứ đại kiên cố thọ các khổ não, ở đây cũng vậy, cho nên tất cả đều tự nhiên.

Giống như hoa sen sanh mầm mộng tự nhiên không hư hoại. Cho nên tất cả chẳng phải tự nhiên, một nghĩa huân tập, giống như tứ đại bên ngoài bị gió thổi, lại không còn tạo ra tứ đại này nữa, ở đây cũng vậy, cho nên đối với tất cả pháp cần phải xả ly. Giống như đối với các hành của loài hữu tình.

Ở đâu cũng như vậy, cho nên pháp này giống như sự tương tợ của cái mầm mộng và hay giống.

 Ở đây cũng vậy, tướng của Đại Nhân không thể hủy hoại. Như vậy tánh đã tạo ra giống như hạt sen sanh mầm mộng. Vì vậy vô số điều ấy cũng không có sự hữu sanh. Giống như mầm mộng kia khi sanh ra, không có từ đâu mà đến.

Ở đâu cũng vậy, cho nên không đến không đi, giống như khi nó đi thì không có chỗ dừng nghỉ.

Ở đây cũng vậy, cho nên không có tru xứ. Giống như mầm mộng kia đều lớn lên, dần dần nở hoa, ở đây cũng vậy, không cao không thấp, giống như mầm của hoa sen dần dần lớn lên.

Ở đây cũng vậy, đã tạo mầm mộng trong bào thai thì dần dần sẽ lớn lên, giống như hoa sen lá xanh mởn mởn, thật đáng yêu, ở đây cũng vậy các hành động đã tạo ra thật đáng khả kính, giống như khi nó hành thực.

Ở đây cũng vậy, khi con người sắp chín mùi, thì tóc, lông, móng, răng và năm căn đều phải xả bỏ, sáu tình suy hao, ý căn tán loạn, để bỏ cái thân này, giống như cái hoa kia, chắc chắn sẽ chín mùi, giống như dưới ánh sáng mặt trời, sắc hương rất vi diệu, ong chúa du hành, nó hết sức vui thích.

Ở đây cũng vậy, khi mới sanh ra, tứ đại như ánh sáng mặt trời chiếu soi, thai thành hình có cảm giác, cùng nó đồng loại, cho nên kiêu mạn đều cùng nương nhau, hết sức ái kính, đói khát, sanh tử gọi dục là vui.

Kẻ ngu si ấy có cái tưởng điên đảo như vậy, ở đây cũng vậy, trong tất cả thời tiết không thoát khỏi già và chết, giống như thời tiết ấy không có năng lực, bị gió nóng thổi, phải xả bỏ xa lìa tất cả, hoa quả đều phải xa lìa, cũng không sở duyên, cũng không có ong, cũng không có sắc đẹp, không làm người ta yêu thích.

Ở đây cũng như vậy, dần dần làm hao giảm ở trong cuộc sống này không có thế lực. Ai có mạng sống tồn tại, thì trong và ngoài đều có sự tổn giảm không còn sức lực trai trẻ khỏe mạnh nữa, tất cả đều phải chết chóc, không có cành nhánh, không có răng tóc, không thấy không nghe, không hương không vị, không còn trơn mịn, cũng không xúc cảm.

Thân thể tàn hoại, những tánh kiêu mạn đều đã hết sạch, cũng không có vị để đắm trước, không có ý hẫy hừng, đã vượt qua sắc, da mồi, mặt nhăn, không còn sức trai trẻ khỏe mạnh nữa, đã có sự già này, không còn yêu các sắc bại hoại nữa.

Các người nam người nữ vì đắm trước nên bị tổn hại. Giống như cây khô mục, cũng không có hương vị, mỗi mỗi đều phải tan nát ly biệt.

Ở đây cũng vậy, mạng căn đã chấm dứt, phải đem đến giữa gò mả. Giống như hạt sen kia, sau khi thành thục lại sanh ra mầm mộng. Tướng này cũng như vậy, luôn luôn thọ hữu. Giống như chúng sanh loại tưởng về hoa cành bại hoại ấy.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Cho nên phải bỏ hữu

Như sanh trong bào thai

Muốn cầu mầm mộng sống

Muốn được đến bĩ ngạn

Cũng phải quán hoa này

Siêng năng cầu tịch diệt

Biết vui, không, vô hữu

Phải nên tự ý cầu.

Đức Thế Tôn nói biển ấy nghĩa thế nào?

Cái thứ nhất gọi là độ chúng sanh đến bĩ ngạn, suy tư công đức tăng ích vô lượng, thanh tịnh không tỳ vết, có đại trí tuệ, giải thoát, không có tâm oán hận.

Thứ nhất được giải thoát, nhờ khéo giác quán không lìa thiện căn, danh tiếng đồn xa, trí huệ trùm khắp, các thứ hương thơm lan xa, giống như cái cây tươi tốt, thất giác ý, khéo phân biệt vô thường, khổ, không, vô ngã, đã độ thoát trí huệ, trăm phước đầy đủ, thường nhập tam muội, không có loạn tâm.

Khuyến trợ chúng sanh, lam cho họ phát tâm thiện, hay thành tựu tất cả mọi thứ tam muội, là hàng tối đệ nhất trong những người học và vô học, tung rãi chánh pháp chưa từng mệt mỏi, bình đẳng hóa độ, nói lời chân chánh, nhu hòa, thanh tịnh không tỳ vết, không có dâm, nộ, si, có công đức số một trong đại chúng.

Tung rãi lòng từ đến tất cả, an lạc, dừng nghỉ, giáo thọ cảnh giới, thường nghĩ đến sự cung kính, công đức vô cùng tận. Ngay khi ấy, trong chín mươi mốt kiếp, Đức Thế Tôn dần dần thành tựu đức này, giác tri tất cả nghiệp sâu xa, muốn khiến cho tất cả quần sanh, đồng hưởng một vị.

Ngài thuyết pháp không sai thời tiết, thường cùng tương ưng với chúng sanh, thập lực, châu báu, đầy đủ các thứ châu báu, nương tựa bốn vô sở úy, ở trong bốn đại, vì các chúng sanh nên không lựa chọn cao hay thấp, Ngài đã độ đời bằng tâm pháp, không có tâm tăng giảm.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Cho nên phải cầu độ

Biển Như Lai vô lượng

Đã vượt đến bĩ ngạn

Vì có khổ, vui này

Ân cần với Đạo Sư

Cho nên con lạy Phật

Công đức phước vô lượng

Nên cầu chỗ an ổn.

Như Lai là chiếc thuyền vì sao như vậy?

Đó là Ngài khéo tạo quả báo chắc chắn, tập hợp chúng không có chống trái, các hạnh đầy đủ, các điều ác vĩnh viễn chấm dứt.

Ngài dùng cấm giới là cam lồ số một để che chở thân, không đoạn diệt tưởng hữu thường, đã an trụ tịch tịnh được đứng ở bĩ ngạn thường yêu thích nhẫn, không khởi tâm sân hận, phân biệt năm căn đẳng kiến, không có tư tưởng khác, các thứ thanh tịnh, giải thoát, không, vô nguyện, vô tướng.

Tam Muội đầy đủ, Ngài thường ôm lòng hổ thẹn, không còn do dự, thiền tịnh về tứ đẳng tứ vô thượng tâm vô sắc tam muội các hạnh, thảy đều phân biệt không có hạn lượng, quán ố lộ bất tịnh, nhãn trí đệ nhất, thường hiện trước mắt, đối với dâm có giác tưởng thấy đều là bất tịnh.

Thường nghĩ xa lìa, dùng Kim Cang tam muội tung rãi hiển hiện, có vô lượng phương tiện muốn cứu độ chúng sanh, giác ý quý giá, cùng tương ưng với trí tu hành đạo giải thoát, không có tai hoạn, sanh, lão, bệnh, tử, Ngài lại thọ thai là muốn cứu độ chúng sanh, đối với công hạnh ba đời đầy đủ, không thể cản trở phá hoại, không ưa thích tất cả những việc thế tục.

Quán tất cả tướng mong được xả ly, tâm không có tăng giảm như vậy, có thể độ thoát tất cả chúng sanh, lấy thập lực làm thuyền bè mãi mãi cứu độ chúng sanh, đưa họ đến bờ bên kia.

Thường có cái quán này, không phải vì thân mình. Ngài là Thanh Văn bậc nhất nhập vào tam muội quán khắp, làm nhiều phép quán, thừa sự cúng dường, tràng phan lọng hoa, dùng tam tam muội không, vô tướng, vô nguyện tam muội làm ấn của Phật, dùng Chiêm đàn lạnh xoa vào thân, dùng năm phép thần thông suốt quán, các thứ hương bay khắp.

Lấy bốn vô sổ úy làm tù và, đầy đủ khuông trống, không có sức mẻ, vô thường, khổ, không, vô ngã, muốn được thoát ly khỏi biển sanh tử, hàng phục chúng ma, khiến cho tan nát, cùng tận chỗ vô vi.

Phân biệt pháp tướng, tất cả đều không thọ, không độ, diệt được thức xứ, không còn khổ, vui, đạt đến Niết Bàn cỡi lên xe phước vì bốn bộ chúng, được hoan hỷ, nhảy nhót không kềm chế được, dùng thuyền bè của thân, khẩu, ý thiện và thập lực để chuyên chở chúng sanh, đều đến được chỗ Nhất Thiết Cam Lồ Niết Bàn.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Khổ hạnh vô số kiếp

Khéo đến chỗ an ổn

Ngài với tâm hoan hỷ

Tất cả đều kết thúc

Tạo thuyền bè phước đức

Nhằm cứu vớt ba đời

Mau vượt bờ sanh tử

Diệt tận mới là vui.

Bấy giờ Đức Như Lai có mặt trời như vậy: Đó là thiền hành đầy đề tứ đẳng từ, bi, hỷ, xả không có sức mẻ, không có hành động ô uế, khéo hộ trì tất cả giới, tiếng tăm đồn khắp, tất cả chúng sanh đều kính ngưỡng khiến cho họ được ưa thích sự tịch tịnh, tâm được hoan lạc trong vô số trăm ngàn kiếp tu hành khổ, tập, tận, đạo hiện đệ nhất nghĩa.

Dùng trì huệ chiếu sáng để trừ bóng tối ngu si, tiêu diệt các khổ, du hành trong chúng sanh, thảy đều thành tựu thập lực vô úy, ý dõng mãnh đối với ba ngàn đời thảy đều phá hoại, thương xót che chở cho người không vượt qua, trí không thể phá hoại.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đối với hạng người đó hiện ra như mặt trời sáng, đầy đủ hạnh vô lậu, cỡi lên xe Đại Thừa, điều ngự vô úy, như gió thổi bườm. Vì nghĩ đế chiếc xe cùng tương ưng với chúng mà hiện ra trước mắt.

Dùng đẳng chí chánh định đối với chúng đều có đầy đủ Đẳng chí tam muội chánh định tư duy tất chúng sanh loại. Ngài đối với ba đời chúng sanh có đầy đủ sự che chở giúp đỡ, họ đều vâng theo ý giáo của Ngài, không có lòng dục, nộ, si, kiêu mạn, xả ly các kiết sử, chúng Trời người đem hoa đến cúng dường, không có năm thứ ngăn che, lấy tín tài tung rải tất cả chúng, đều khiến cho họ giác tri, không có trần cấu, các kiết sử không làm ngăn ngại.

Đức Thế Tôn làm mặt trời chiếu sáng như vậy:

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Đã đầy đủ trăm trí

Hiện ánh sáng ba đời

Vô số, trăm kiếp hạnh

Đã vượt qua bờ này

Hoàn hảo với chúng sanh

Con lạy bậc ánh sáng

Diệt ngu si tối tăm

Con lạy đấng Huệ Nhật.

Vì sao Đức Như Lai có hình tượng giống như hoa sen?

Bởi vì Ngài có công đức bậc nhất mà thành, đối với ba cõi, Ngài có đức tin được độ thoát, đối với chúng sanh thanh tịnh đẳng trí phổ biến châu tát, nhờ sức mạnh tinh tấn được đến bĩ ngạn, tiêu diệt mây mù, thiền duyệt đều được đắc độ, niệm giải thoát không có các tưởng, nhờ quán mà chấm dứt các thứ tai hoạn ô uế, cũng không có ý khác.

Đẳng kiến đầy đủ, thảy đều thành tựu, thảy đều biết rõ, nhờ hương giới định thơm ngát bốn phương, dùng ánh sáng thanh tịnh hủy hoại chúng sanh loại. Giống như loài ong hút bao nhiêu loại mật chúng đều phân biệt được.

Rõ biết đối với tam hữu đều được giải thoát, chúng sanh đều được hy vọng Ngài dùng các thứ phương tiện muốn cho họ được an ổn, quán sát sâu xa không nhàm chán, tất cả căn không khuyết lậu.

Ngài chấm dứt tai hoạn dâm, nộ, si, trong tâm chúng sanh, làm cho không còn bốc cháy nữa, hết sức thanh tịnh, mềm mại và được độ thoát.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Đã sanh ra thanh tịnh

Đủ vô số công đức

Muốn được vui tịch tịnh

Hãy hay giác ngộ chúng

Chính mình được khen ngợi

Sắc vi diệu bậc nhất

Tối thượng giữa loài người

Nay con cúi đầu lạy

Cúng dường hoa khó sánh

Vi diệu tối đệ nhất

Chúng sanh được thanh tịnh

Nên gọi thường hữu thanh

Cùng thế gian tương ưng

Hương lành rất vi diệu

Được người đời khen ngợi

Vô Trước Đại Thần Tiên.

Bấy giờ bậc nhất thiết trí có đám mây mù như vậy, đó là trong chín mươi mốt kiếp Ngài đã tu hành tư duy bất tịnh, thần lực đã chế ngự, lời nói ra không có khác nhau, sạch hết các ái dục, không còn sầu lo, đối với các thứ tam muội được đến bĩ ngạn.

Lấy tâm đại từ bi làm cho chúng sanh đạt được công đức, đầy đủ trăm phước, khiến cho họ đạt được tịch tịnh, dùng quán tâm mà quán cúng sanh.

Đối với các chúng nhân dân, A Tu Luân, quỷ thần, đối với ba đời mà thực hành lòng từ, đều khiến cho họ được thanh tịnh, mát mẻ, được giải thoát môn, đế chỗ giải thoát.

Lại dùng ánh sáng trí tuệ, rửa sạch chúng sanh làm cho thanh tịnh, dưới đến người nam người nữ đều được thiện lợi, nơi đó du hành được các nhẫn nghiệp, được pháp thậm thâm, rành pháp chúng sanh, mà trồng căn lành.

Chúng sanh đói khác vị ngọt cam lồ, lo chúng không được độ thoát, nhờ pháp tu hành khiến chúng sanh giác ngộ, tất cả hành hữu vi thảy đều vô thường, khổ, không, tất cả pháp ngã, Niết Bàn là vui đệ nhất, bình đẳng độ thoát sự khổ vui ấy, khéo phân biệt được đầy đủ ngôn ngữ.

Đối với trong các chúng khen ngợi pháp lành, trồng gốc giải thoát, pháp dâm, nộ, si, kiêu mạn, thảy đều lìa bỏ, dùng tâm Kim Cang vô úy, độ thoát tai hoạn cần khổ của chúng sanh, với trong chúng khác, bậc nhất thiết trí làm cho họ thương yêu tất cả, huệ thí tất cả mà không đắm trước. Cho nên con chắp tay đảnh lễ bậc Cam Lồ.

Bấy giờ nói bài kệ:

Công đức hiện ánh sáng

Nên phát tâm hoan hỷ

Đã được vô sở úy

Đã hàng phục bên ngoài

Mây thập lực vô song

Nói cam lồ trừ khát

Là mây nhất thiết trí

Vì vậy uống Cam Lồ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có ngọn lửa như vậy: Cái gọi là điều Ngài mong thực hành, đó là chúng sanh loại đều mong cầu hỷ lạc, giải thoát, được bốn đẳng tâm, sở cầu đã được độ thoát, đầy đủ đệ nhất nghĩa cùng trí tương ưng, tam muội biến khắp tất cả, có thần lực ấy, các thứ danh văn, đầy đủ các căn lực.

Tam muội sâu xa đẳng chí, có năng lực ấy, trăm ngàn vô số loại, căn, giới tất cả pháp này được tự tại, bậc tối tôn ba đời lấy oai thần thập lực, được vô sở úy.

Đó là giải thoát thứ nhất, được ánh sáng đệ nhất, sự không tịch đệ nhất, có đức như vậy, tung rãi pháp sâu xa, đối với chúng sanh thì dạy dỗ bảo họ thực hành đức nhẫn nhục.

Vượt qua sự sân hận, lời nói êm dịu không làm thương tổn ai, diệt trừ tất cả kiết sử, đối với hàng học và vô học, trong bốn bộ chúng đã khéo tu hành. Chỉ dạy sự khổ báo là như vậy.

Công đức của Ngài thật vô lượng, thành tựu trí, hướng đến cửa Niết Bàn, mà được cúng dường, tôn trọng bậc nhất, tươi mát chúng sanh. Vì vậy con chấp tay đảnh lễ ngọn lửa của Phật.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Hay thiêu đốt cỏ cây

Lửa Phật, vi diệu nhất

Lửa Phật đã diệt hết

Vì có công đức quý

Lửa tối thượng, không bờ

Cho nên con đảnh lễ

Không còn sanh khổ, vui

Lưu bố nơi thế gian.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có viên quán này rất nhu nhuyến, thành tựu cấm giới, ngay nơi đó không có năm sự ngăn che, cũng không có đá, cát ô uế, cũng không có núi non, tất cả gốc rễ các pháp đều được tự tại, đại từ bi thanh tịnh, không có cấu uế, tự mình hết sức vui sướng, đều đến bĩ ngạn.

Có sự tư duy công đức như vậy, các hạnh thuần thục, việc làm có thế lực, thành tựu căn bản thiện, cũng không di động đối với pháp nhẫn, không còn hồ nghi, cái thấy bình đẳng, tám hiền Thánh đạo đều được đầy đủ, được các sự cúng dường, trăm hạnh vô số không thể kể hết. Giới, tam muội, đầy đủ thập lực, không còn hồ nghi.

Các sự ngăn che ấm cái đã giải thoát thanh tịnh, đã phát thệ nguyện, quả, cành, lá sầm uất, đối với chúng, sanh ra quả, sanh ra trăm ngàn rừng tam muội đều được sầm uất, cái thấy bình đẳng, không có tà kiến, thiền vô sắc mà thân tự vui, từ bi hỷ hộ, thường che gở chúng sanh.

Ngay khoảng giữa, phân biệt bảy giác ý, dứt tâm, đệ nhất quả, tàm quý vây quanh, thường niệm huệ thí, vì cầu sự xuất yếu nên có đám mây mát mẻ này, dùng sức nhổ gốc các kiết sử, có sự dũng mãnh này là muốn được giải thoát, công đức không thể hủy hoại.

Thiện pháp tập trung nơi Ngài, trừ dâm, si, nộ, cho chúng sanh, được vô sở úy. Giống như A Nhã Câu Lân, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên Tử, A Na Luật, Nan Đề, Kim Tỳ La, Nan Đà, Ly Việt, đối với trong vườn thanh văn, làm vua của thanh văn, công đức không gì bằng, ao tắm thanh tịnh, tung rãi tất cả thiện, ba đời tán thán.

Cho nên con chắp tay cúi lạy Ngài.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Khéo che chở ba đời

Hoa giác ý đẹp thân

Vua trong chúng Thanh Văn

Nên cầu nơi an lạc

Vì mầm mộng chúng sanh

Thành tựu quả giải thoát

Không uế sanh công đức

Sẽ được chỗ an lạc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có cái không như vậy: Ý đồng một sắc rộng rãi vô biên cho nên gọi là không, đoạn các ái dục tất cả đều không trụ, dùng quả báo của trí, tất cả đều thắm nhuần, không có các sự trói buộc, cũng không có các sự ngăn che, lấy tam muội chánh thọ độ các trần cấu, khéo xuất yếu lấy trăng thanh tịnh giải thoát làm ánh sáng lành, lấy công đức vô lượng.

Ý chuyên nhất sanh nghiệp, tu một đời thanh tịnh, trong tâm thường hoan hỷ, mắt trí huệ thanh tịnh, nên cảnh giới thanh tịnh, nhờ đoạn các kiết sử nên không đắm trước, vì đã được lòng đại từ, cho nên tất cả đều không có xứ sở, vì ý phân biệt, cho nên các thứ đều được thành tựu vì được cúng dường cho nên không nhiễm kiết sử.

Vì nương vào tâm này, cho nên không bị tịnh hay bất tịnh làm nhiễm ô tâm mình, nương tựa chúng thanh văn cho nên có các thứ chim tụ lại, nhờ chí quán đầy đủ cho nên sự vi diệu không cùng tận, nhờ rừng tam muội, cho nên các ngôi sao xoay quanh.

Nhờ dùng chánh pháp để hàng phục địch bên ngoài cho nên khó có thể trù lượng, thường quán như vậy, giống như có người được năm hoan hỷ, cứu cánh nghiệp của mình, chắc chắn không còn nghi ngờ mà làm thối chuyển chỗ ở của mình.

Bấy giờ nói bài kệ:

Niệm ái lạc hoan hỷ

Nếu có bao nhiêu sắc

Tất cả được đẳng ý

Đã đạt đến bĩ ngạn

Không có các trần cấu

Đều có thể phân biệt

Muốn có được khen ngợi

Không có tâm hỷ lạc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có bánh xe như vậy: Ý đình chỉ đầy đủ căn, lực, giác ý không còn khuyết lậu, đều tự trang nghiêm, tứ thần túc tối đệ nhất, tứ ý đoạn, khéo trang nghiêm thân, miệng khéo thuyết giáo truyền bá.

Thất giác ý, đẳng kiến mà được giải thoát, nhờ chỉ quán nên không có suy ái, đã độ tam muội ấy nên được vô sở úy, vì rống lên tiếng rống Sư Tử cho nên không còn sợ hãi, biện tài vô ngại, được tín hoan hỷ, tinh tấn không có tâm niệm giãi đãi, nhờ vượt qua mọi cảnh giới của ma mà không có dục ái, công đức đầy đủ, tiêu diệt các đường ác.

Quả tam thừa vi diệu, khéo thành tựu đệ nhất, diệt các ma chúng, ba dục vĩnh viễn chấm dứt, các sự cầu lo khổ não, vĩnh viễn chấm dứt không còn, cũng không có hữu ái, cũng không có ngủ cái, cũng không tỳ vết uế, cái gì nương nơi thân đều xả ly hết, trừ khử hồ nghi.

Không có ngu si, có giác có quán cũng không có kiêu mạn, tùy thời hứng khởi cũng không điên đảo, vĩnh viễn trừ hết tà kiến, có oai lực, hoan hỷ, diệt trừ kiết sử, hàng phục chúng ma.

Bấy giờ liền nói bài kệ

Mọi người đều cúng dường

Che chở người cô thế

Pháp luân không ai bằng

Đã có danh tiếng này

Cứu độ các chúng sanh

chuyển pháp luân trước ma,

Trời người đều khen ngợi

Ngài là bậc đệ nhất.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nhờ loại Kim Cang gì mà hàng phục được các ma?

Đó là bấy giờ Đức Thế Tôn cỡi lên xe cấm giới, mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn, có các sức mạnh nhẫn nhục, dùng đám mây lớn làm dù lọng thanh tịnh, dùng không kiết sử, ủng hộ vô dục, chấp trì đẳng kiến, nhờ Tứ Thiền mà tham ái và ngã mạn được giải thoát thanh tịnh.

Đẳng chí chánh định đẳng ngữ đều được thanh tịnh, nhờ trí biện tài mà thần túc trang nghiêm. Tự giữ ý chuyên nhất nên giải thoát kiên cố, không có dâm, nộ, si, dùng giác ý, giải thoát làm ngọn đuốc sáng, tất cả đầy đủ, không có ba ái, độ tất kiết sử, sức mạnh không thể phá hoại, đạt đến biển Niết Bàn không có tai hoạn thế tục, dùng trí huệ Kim Cang.

Lại dùng trí nghiệp diệt trừ các đường ác, thập lực, giải thoát, tứ vô sở úy, hàng phục điều vốn đã tu tập, hành không bại hoại.

Tất cả các loại sắc tượng thảy đều thành tựu, diệt trừ các chúng ma, cũng không đắm trước.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Các thứ đế khủng bố

Hàng phục các ma chúng

Các chúng sanh có tưởng

Nhờ hành tam muội này

Ý tinh tấn Kim Cang

Và các trần cấu khác

Đều đoạn hết kiết sử

Nên cúi lạy Mâu Ni.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì sao dùng pháp vũ để mưa pháp?

Đó là chuyển pháp luân bất tử, ở trong tám bộ chúng mà tán thán pháp này. Ví trong trăm kiếp Ngài đã cầu thiện hạnh để tu hành, đối với bánh xe từ kiên cố, pháp thanh tịnh như vậy.

Sự kiên cố của Hiền Thánh, an trụ nơi xuất gia mà quán, có đại oai thần, không đắm trước, lại dùng nhân lực của nhẫn trí nên đều được cửa giải thoát kiên cố, có phương tiện ấy, ở nơi đông tây được sự vi diệu.

Ngài có của cải thật nhiều, ngồi dưới gốc cây hết sức đoan chánh, Chư Thiên đứng đầy hư không, Ngài ngồi quán sát về phương Đông.

Bấy giờ Đức Phật thật vi diệu, ở trong khoản giữa, có sự hoan hỷ như vậy, rải hoa tán thán.

Lúc Ngài quán sát hoặc chúng A Tu Luân nghe đức của Ngài, và các thần tiên như vậy: Ngày xưa Đức Phật đã tạo tràng hoa sen thật đẹp tán thán Phật Định Quang, Phật Tùy Diệp, đối với đại chúng ấy tâm Ngài được tự tại bậc nhất.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Văn là bậc nhất thiết trí, được chúng Chư Thiên hoan hỷ. Tất cả đều do Đức Phật đã tạo ra. Ngài giống như Chuyển Luân Thánh Vương được tự tại đối với cảnh giới.

Đức Thế Tôn cũng lại như vậy, đối với trong pháp vô lậu, Ngài đã được tự tại, giống như Chuyển Luân Thánh Vương tự tại đối với cảnh giới. Các chúng sanh cùng nhau đấu tranh thì Ngài có thể làm chấm dứt.

Đức Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, với trong chúng Thanh Văn có chúng sanh nào có tâm hồ nghi đối với chánh pháp, Ngài làm cho đều đoạn trừ.

Giống như vua Chuyển Luân Thánh Vương có của báu đều có thể đem bố thí. Đức Phật cũng lại như vậy, với những chúng sanh thiếu của báu Thánh Hiền, Ngài liền đem Thất Thánh tài mà huệ thí cho. Giống như Chuyển Luân Thánh Vương dẫn dắt chúng sanh, chỉ cho họ chánh pháp. 

Đức Thế Tôn cũng lại như vậy, chỉ cho chúng sanh đến đạo Niết Bàn. Giống như Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện ở thế gian, những chúng sanh bị nhốt trong lao ngục đều được thả ra.

Đức Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, khi xuất hiện ở thế gian, chúng sanh ở trong lao ngục sanh tử đều được giải thoát.

Bấy giờ liền nói bài kệ này:

Pháp Vương là đệ nhất

Ngài thương xót chúng sanh

Nên thờ cung kính Ngài

Công đức Ngài như vậy

Không ai quý hơn Phật

Phật che chở ba cõi

Độ người không được độ

Giác ngộ người không giác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn có cái thành như thế nào?

Đó là trí tuệ chỉ quán của bốn Hiền Thánh, với chỗ giới định, thiện tướng vô vi hạnh, lấy trí tuệ làm thành quách, lấy tam muội để đuổi quân địch, lấy cửa giải thoát làm cửa ngõ, lấy cái thấy bình đẳng làm ngã tư, ngã tắt, lấy niệm làm tường vách, lấy bình chỉ ý làm hào.

Lấy Ngũ Căn làm nhà, lấy thiền làm phòng ở, lấy hổ thẹn tự ngăn che để chỉ đường, lấy thần túc nên du hành không bị chướng ngại, lấy hoa giác ý để tự trang sức, lấy quả chân thật làm hạnh, lấy hiền Thánh đệ nhất mà tự vui thích. Ngài rất an lạc, dạy bảo chúng sanh, đều được tế độ.

Tôn Giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, có vô số chúng thiện tưởng, thường du hành giáo hóa, đầy đủ điều lành, thành tựu sở giác. Ở trong ao đó mà tắm rửa, lấy giới làm hương xoa thân. Lấy tam tam muội không, vô nguyện, vô tướng làm món ăn, lấy pháp vị làm nước uống buổi chiều, đầy đủ bảy báu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì đại chúng hữu học và vô học đang đoanh vây, Ngài muốn cho họ được đến Niết Bàn, đến chỗ vô sở úy, cũng được bất thối chuyển, vô dục, đối với chúng sanh được vô sở úy, đầy đủ pháp lực, các ấm, nhập thành tựu, không đắm trước trần cấu.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Đã chấm dứt các ác

Đại thần tiên chế giới

Khiến chúng sanh thanh tịnh

Đấng thập lực đã nói

Là thành quách chúng sanh của Ngài

Thường sợ sanh, già, bệnh

Không đến chỗ Niết Bàn

Đều do chúng sanh khổ.

***