Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Những Kinh Do Tăng Già La Sát Tập Thành

 

PHẬT THUYẾT NHỮNG KINH

DO TĂNG GIÀ LA SÁT TẬP THÀNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Bạt Trừng, Đời Phù Tần
 

PHẦN SÁU
 

Khi ấy Tỳ Kheo Bát Mặc bảo rằng: Ta đã thấy hầm lửa này rồi.

Bấy giờ Chiên Đà Lê nói: Nếu không muốn thân cận với người nữ, chi bằng hãy nhảy vào hầm lửa này mà chết đi.

Khi ấy vị Tỳ Kheo này liền nghĩ: Ngọn lửa này tuy rất đáng sợ. Nếu ta tránh ngọn lửa này mà thân cận với dục, thì dục còn cháy dữ hơn ngọn lửa lớn. Nếu phạm về dục về sau phải bị tội báo vô lượng. Thà hôm nay ta nhảy vào hầm lửa này mà không phạm dục.

Song thầy của ta thần thông không ai bằng, làm sao ta có thể trái lời thầy dạy?

Vì vậy cho nên ta thà nhảy vào lửa mà chết chứ quyết không phạm dục mà sống.

Nay ta bỏ cả hai việc, tại sao ba đời Đức Như Lai lập cấm giới mà nay ta lại vi phạm?

Vì vậy cho nên ta nhảy vào hầm lửa mà chết.

Suy nghĩ như vậy xong, vị ấy muốn đem Y Tăng Già Lê và bình bát cho người khác cô ta

Bấy giờ Chiên Đà Lê hỏi rằng: Dùng y bát này để làm gì?

Tỳ Kheo Bát Mặc nói:

Nay các ngươi Phạm Hạnh

Nhận y bát ta cho

Các vị tụ tập lại

Đem lời ta nói nàng

Tỳ Kheo tên Bát Mặc

Gặp chỗ ách nạn này

Nhảy hầm lửa mà chết

Không cùng nàng ái dục.

Cho đến hai người này đồng xuất gia học đạo, nói rộng như trong Khế Kinh.

Bấy giờ lại nói bài kệ này:

Người đời tu thiện ít

Tư duy mãi không quên

Cũng không hưởng dục lạc

Vì độ thoát chúng sanh

Huống lại mở Cam Lồ

Thế Tôn rất vi diệu

Vì sao tạo công đức

Kẻ trí tùy thời thí.

Bấy giờ Đức Thế Tôn làm sao đi khắp nơi, qua lại giác tri gốc của sanh?

Đó là bấy giờ đẳng ngữ có hai loại: Tâm ý biết được hình thể công đức của gió. Đó là hai loại gió. Hình thể của loại gió ấy, sanh ra các ái niệm mà ý biết được, giống như hoa nở, tươi sáng sạch sẽ, giống như loại gió ấy, quán kiến giải thoát, việc làm thù thắng, giống như tuyết thành nước, mây của tâm này cũng lại như vậy.

Nhiếp trì cảnh giới nội ngoại, có luồng gió mát thổi lên, biết rõ ý ấy, nó gìn giữ tất cả chủng tử không phá hoại, có sáu cảnh cơ quan, bên ngoài bị sáu đại sai sử, đại căn lực trói buộc, nó có luồng gió nhu nhuyễn thổi lên. Dần dần có trí sanh, giống như khi Ngài cất chân lên đều do công đức của bổn hạnh, không mất cái tướng đạt ra.

Xương gót chân khi bước tới bước lui đều có lửa bốc lên, tất cả khớp xương hoặc cong, thẳng, nắm lại, mở ra, gân, mạch, hòa hưỡn, có sự hy vọng.

Nếu lại quan sát lúc mở mắt, căn thân bên trong có sự cảm xúc, dần dần đốt cháy tùy theo Ngài đến hoặc đi, hoặc lại khi ăn hay nuốt các khớp xương cong lại hay thẳng ra, mở hay đóng, đều do hình thể tạo ra. Và các tâm hạnh đã tạo, dựa vào gió ấm mà trừ khử, luồng gió điên đảo cũng thôi âm hưởng làm rách môi, gảy răng.

Bốn ý đã tạo tất cả pháp chủng tử, song chỗ phát xuất luống gió ấy mạnh hơn, nên đều có lời nói như vậy, có tiếng vang như vậy, người ấy nói lên lời ấy, không phải vì làm phước, tại sao không bị trói buộc?

Còn ta nói lời này có động cơ này: Bên ngoài có sự phá hoại, bên trong có các hành. Bấy giờ nếu không tạo tác liền có hữu tận, liền có trưởng dưỡng.

Giống như chiếc xe có trí, ngay nơi đó mà thấy sức chở của nó.

Nhờ duyên vào pháp hào quý như vậy, dựa vào cái tưởng điên đảo lúc ấy, liền nói bài kệ này:

Điều này rất kỳ đặc

Giác tri không, vô trí

Dần dần nương tựa nhau

Bộ máy rất trọng yếu

Cũng không xúc vào ý

Thân ý đã nương nhau.

Có các việc như vậy

Huyễn hoặc rất vi tế.

Bấy giờ Đức Thế Tôn tu hành phạm hạnh, vì sao thanh tịnh không loạn, không theo người khác để học, du hành một mình không bạn lữ?

Đối với loài người, Ngài có công đức oai nghi hết sức vi diệu, không đắm trước với tất cả chúng sanh, những nghiệp đã làm, không ai bì kịp, chúng sanh vô hạn lượng, nương tựa vào tất cả pháp vi diệu.

Vì pháp tự nhiên cho nên nhất thiết trí không hủy hoại, thành đại yếu đạo, ý muốn thành tựu, chắc chắn chứng quả đầy đủ các công đức, có Thanh Văn vây quanh, sanh ra tất cả đức, tất cả vi diệu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đối với chung sanh, hình thể Ngài vi diệu bậc nhất, thành tựu các đức, trừ tối tăm cho đời, vô sở trước, không đắm trước ba đời, bỏ các kiết sử, được đại từ bi, tâm không loạn tưởng, đã vượt qua sự lo âu sợ hãi, đến chỗ an ổn, luôn luôn hàng phục tâm mình, tự mình truyền thọ.

Khi ấy liền nói bài kệ này:

Phạm hạnh rất vi diệu

Thành tựu công đức từ

Nếu ai nghe Ngài dạy

Trời người đều lễ bái

Với chánh pháp không hai

Sự An Lạc cũng vậy

Ngài là Bậc Hiền Thánh

Cho nên con đảnh lễ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Tam Da Tam Phật, tâm nhẫn nhục của Ngài rất vi diệu, trừ các kiết sử, cũng không còn đắm trước, lửa không thể đốt cháy, việc giác ngộ hơn cả gió, cũng có công đức thù thắng, vô úy, thành tựu đại chúng, gánh nặng cho mọi người, hết sức tương ưng, không thể nghĩ lường. Giống như con sư tử không có tâm khiếp nhược.

Nhan sắc hòa duyệt vì các người ngoại học nên đã tu không đắm trước, giống như hoa sen không bị nhiễm ô, vì tự nương vào chúng, cho nên tự bị phá hoại, ý có mong cầu, cũng có thể thành tựu, vì bạt trừ các kiết sử cho nên rất mầu nhiệm, với mọi người càng nhiều sự tương sanh, cho nên sự thọ nhận mầu nhiệm.

Nếu tự cầu đối với tất cả đời sống, nên mầu nhiệm, ta nên kính lạy bậc phước điền tối thượng, người bảo vệ nhân dân, Vua là bậc nhất.

Không quán như vậy, nghĩa ấy thậm thâm, xả các pháp ô uế, Mặt Trăng là bậc nhất, phân biệt các pháp, tỳ Sa Môn là bậc nhất, âm vang lan khắp trong trẻo, tiếng rống của sư tử là bậc nhất, muốn trồng hạt giống vào ruộng phước tốt, có tăng thượng học, bỏ tất cả việc đồng áng.

Thích Đế Hoàn Nhân là bậc nhất. Với tất cả thế gian công đức Ngài là bậc nhất. Ngài thị hiện con đường Niết Bàn cũng là hơn cả, thương xót che chở tất cả chúng sanh mở tất cả trói buộc, mầu nhiệm như vậy.

Khi ấy liền nói bài kệ này:

Công đức của Như Lai

Tung rải khắp tất cả

Sống như nhà họ Thích

Như biển có nhiều báu

Và các chúng Phật pháp

Sung mãn cả ba cõi

Muốn đến được bỉ ngạn

Phải theo học Như Lai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn là bậc hùng sư tử trong loài người, hy vọng đối với nhất thiết trí, nhan sắc hòa duyệt. Công đức yết hầu của Ngài không ai sánh bằng, công đức Phật Pháp có bốn thần túc, lời nói rất rõ ràng, xa lìa lời nói thô ác, thân ngay ý chánh, các trí đầy đủ, con mắt là căn mầm của sự thanh tịnh, phân biệt các pháp.

Xưng dương công đức, kẻ trí khó biết như mưa Cam Lồ, khó có thể cản trở phá hoại, đầy đủ thập lực, dũng mãnh vượt lên tất cả, biết rõ tất cả sự ưa thích mọi người nên đến để cứu tế, đại từ bi, thiền, giải thoát tứ đẳng tứ vô lượng tâm, chưa từng thiếu xót, cũng không có mùi ái dục.

Quán đồ ăn rồi mới ăn, được vô sở úy, hàng phục các chúng khác. Ngài giống như sư tử, nai chúa, khi kêu, rống lên, ai nghe tiếng ấy cũng đều bỏ chạy tứ tán, ở trong hang chạy đến hang, ở trong lỗ, chạy đến lỗ như chim bay trên hư không, điều này cũng như vậy. Nếu nghe tiếng vô thường.

Ở đây người phàm phu đối với sự ưa thích trường thọ, đều ôm lòng sợ hãi, đối với thân kiến đều chạy mãi không ngừng. Giống như con rồng, con voi nghe tiếng rống của Sư Tử, bất giác hoảng hốt, hoặc bứt đứt dây cương, xiềng xích bỏ chạy.

Sự trường thọ của chúng sanh, Chư Thiên Cõi Sắc Giới cũng lại như vậy, nghe lời dạy về vô thường, họ yêu thích mùi vị đã đắm trước, họ đều có cái tâm luyến ái này.

Bấy giờ Đức Thế Tôn là Sư Tử, Nai Chúa, tâm Ngài hoàn toàn không sợ hãi, đã thành đạo quả, cũng không thối chuyển, ai thấy Ngài cũng đều hoan hỷ, được chỉ quán vi diệu, biết công đức của Ngài không có ngu hoặc.

Bấy giờ liền nói bài kệ này:

Giống như sư tử rống

Ai nghe cũng kinh ngạc

Dùng trí phân biệt pháp

Mỗi mỗi có tên riêng

Nơi sanh từ hãi hùng

Phật đức không thể nói

Cho nên lạy sư tử

Sư tử Vua các Vua.

Bấy giờ Đức Thế Tôn là đấng voi hùng trong loài người, thảy đều có đầy đủ tất cả trí tuệ, tất cả chi tiết trong người đều tương xứng với phần đầu của Ngài.

Đó gọi là đầu trí tuệ, nhân trí tuệ mà có niệm, niệm là cái đầu, nương vào chỉ quán là bụng, lấy sự đình chỉ giải thoát để biểu thị sự học của Ngài là không có thầy.

Tự nhiên thành tựu đầy đủ, lấy tín căn làm diệu pháp, dùng tín lực mà trói, có sức lực như vậy, lấy sự giữ gìn thanh tịnh làm nanh vuốt, để trừ bỏ đường ác.

Lấy sự hổ thẹn làm giàu có, nhờ đó mà thân được vi diệu, thân Phật pháp trùm khắp, cũng không có ý hại mà tu hành phạm hạnh.

Cứu cánh cội nguồn, tìm cầu phương tiện, dõng mãnh bất thôi, tất cả các đời đều vi diệu, không ai hơn được công đức của Ngài.

Giống như núi An Minh, tập tu thiền định, giống như dao bén, giác ý tự tại, bảy chỗ an tường, vô thường, khổ, không, tu tất cả pháp, thảy đều vô ngã.

Niết Bàn là Diệt Tịnh, đã hành trì như Cam Lồ, thập lực, có thế lực, ai thấy Ngài cũng đều hoan hỷ, Ngài đã phá hoại tánh kiêu mạn, quả báo giải thoát, đã nương vào Cam Lồ, không còn tính toán vào chỗ đắm trước mà bổn ý đã tạo ăn, món ăn Cam Lồ giải thoát, giống như Cam Lồ sẽ được lợi dưỡng, trừ bỏ các điều uế trược, được món ăn cũng không dự trữ.

Vì đối với chín mươi mốt kiếp Ngài đã khéo tự hàng phục nên bây giờ liền có định tâm này, không có các náo loạn.

Khi ấy liền nói bài kệ này:

Hòa duyệt không loạn tưởng

Ý định, rất thanh tịnh

Cúi lạy vô lượng đức

Là Voi Chúa, người hùng

Là chúng sanh có đức

Phá hoại các sắc tướng

Mắt sạch không bụi dơ

Lạy bậc giác tối thắng.

Đức Tam Da Tam Phật có công đức như vậy, có sự tự giác tri như vậy, có sự thậm thâm rất vi diệu, không ai sánh bằng như vậy, bên trong tự giác các pháp.

Giả sử lại có người phỉ báng Ngài, kẻ ấy hoặc có thanh tánh cùng tương ưng, có sự hữu dư như vậy, như có người nói rằng: Có các Sa Môn xuất gia hoặc Bà La Môn thông minh biệt huệ, hoặc ở trên Cõi Trời, hoặc ma hoặc Trời ở cõi Dục Giới, hoặc Phạm Thiên, sắc giới vi diệu, làm như vậy để thuyết pháp, ta cũng không thấy tướng của họ, cũng không nhân duyên như họ đã nói.

Hoặc lại không thấy tướng mạo, vì sao họ chẳng phải Đẳng Chánh Giác, cũng nói như vậy, thấy họ mà thuyết pháp, đến chỗ an ổn mà tự vui thích, họ là Đẳng Chánh Giác, cũng đến chỗ vô úy, và giống các bậc vô trước khác. Nói rộng như trong Khế Kinh.

Ngài rất mầu nhiệm, không đắm trước chỗ không điều động, không có các danh từ, đang chuyển pháp luân thanh tịnh. Đức Thế Tôn thanh tịnh đang chuyển pháp này. Đó là con đường tám phẩm đạo của Hiền Thánh.

Phải chuyển pháp ở chỗ nào?

Hoặc nói như vậy, ngay nơi chúng này chuyển pháp mầu nhiệm, ngay nơi chúng này mà rống lên tiếng rống của sư tử cũng không sợ hãi.

Lại nói như vậy: Vì muốn hàng phục chúng kia cho nên trước tiên Ngài không sợ hãi.

Thứ hai là các lậu chưa hết, nghĩa ấy thế nào?

Đó là ở trong lậu chướng có các sự sợ hãi, hoặc lại đầy đủ đoạn trí.

Đây là lần thứ hai, thứ ba ta đã nói đạo pháp.

Điều này có ý nghĩa gì?

Đó là sự thật như vậy, vì chúng sanh mà cầu.

Ngài nói như vậy: Ở đây tạo các nội nhập, điều thứ ba, thứ tư có sự trói buộc. Nó có mười việc, người nào đã tu hành, ở trước mọi người không sợ hãi, kẻ kia hoặc không có tâm cung kính, như vậy không có oai nghi, cho nên đối với đại chúng ôm lòng sợ hãi.

Tuy lại tạo tâm cung kính, trí huệ sáng suốt như thật, có oai nghi, kẻ ấy vẫn có sự sợ hãi, đối với mọi người tuy có lòng cung kính với họ tuy vô úy, với giáo nghĩa có sự ngu si tuy lại có tâm thừa sự.

Cung kính cúng dường, song không luôn luôn tu hành, tuy lại tu hành, cũng không qua thời gian lâu, trong đó cũng có tâm sợ hãi.

Với người tuy có tu hành lâu, ý không muốn cho mau có kết quả, trong đó vẫn có sự sợ hãi. Tuy có ý muốn cho mau cũng không thân cận, do đó trong tâm vẫn lo sợ. Kẻ ấy tuy có thân cận nhưng không thật lòng nương tựa, trong đó cũng có tâm lo sợ.

Ý tuy nương nơi điều thiện, tự mình không có điều thiện ấy, cho nên ở trong chúng vẫn có tâm sợ hãi. Nếu lại có biến khắp ý này, nhưng không có phương tiện thiện xảo, cho nên ở trong chúng vẫn có tâm sợ hãi. Đức Thế Tôn khi làm Bồ Tát, tôn thờ thầy dạy và mọi người, với ba cõi Ngài dựng lọng báu vũng chắc.

Từ lúc Phật Định Quang đến nay, Ngài thành Tam Da Tam Phật Chánh Giác, biết bao nhiêu kiếp Ngài hết sức thanh tịnh, không có tỳ vết, không có chỗ tối tăm nào mà không rọi ánh hào quang đến, nhờ giác ý ấy, nên Ngài có hình loại như vậy, việc làm thành tựu. Vì đi con đường ấy nên chín mươi kiếp Ngài đã tạo thành. 

Bấy giờ Đức Thế Tôn đã được danh hiệu, khởi lên trí huệ siêu tuyệt như vậy, nên đã thành Phật, cùng tương ứng với trí tuệ, tâm ý đã giác ngộ, nương theo thiện ý ấy, nên tất cả đều thành tựu. Với tất cả, ý không đắm trước.

Ngài là người không nhiễm ô bậc nhất, cũng không ôm lòng sợ hãi, cho nên Đức Thế Tôn, thường trụ như vậy, hằng nhập Tam Muội với người có trí thì Ngài có trí hơn, Ngài vượt trên mọi người trong số đời. Quán sát như vậy nếu có ai nạn vấn, Ngài cũng không do dự, có đầy đủ văn tự để đối đáp.

Bây giờ liền nói bài kệ:

Thân như Sư Tử chúa

Muốn đến nơi viên quán

Muôn thú đều sợ hãi

Đều chạy đông chạy tây

Bậc vô trước như vậy

Dõng mãnh trước mọi người,

Không thích gốc sanh tử

Lấy pháp độ nhân Thiên.

Bấy giờ Đức Thế Tôn quán tất cả thế gian giống như cây cỏ.

Vậy làm sao để thí nghiệm?

Loại đầu tiên có năm hạnh, giống như cây cỏ bên ngoài ở đó sao lại có năm loại?

Lại nói rằng: Vì sao các cây ấy triển chuyển nương nhau.

Sanh ra các thứ trói buộc?

Khổ đế đã đoạn. Bên ngoài cũng có sanh ra năm chủng hạnh. Quán chỗ đất phát sanh ra khổ ấy, đều nương nơi bên ngoài mà sanh.

Vậy đối với bên trong làm sao để sanh?

Có chỗ nói rằng: Đối với nội thức xứ… có sự quán ấy.

Như vậy trụ bên ngoài tuy chủng loại liền sanh, trong đó có người cho rằng: Như Mặt Trời, Mặt Trăng hiện không có ánh sáng, chúng mỗi mỗi nương nhau.

Có chỗ cho rằng: Nương bên ngoài cũng sanh.

Nghĩa ấy thế nào?

Đáp rằng: Ngay bây giờ nếu không nương nhau để ăn, bị nước trôi, bị lửa cháy, an xử hình thể, hoặc bị gió thổi. Giống như mặt đất sanh ra cây cối, tùy theo gió mà đến mà đi, trong đó đều biết rõ. Gió trong thân đã xúc vào lỗ tai thì có sự nghe, lúc đó cũng có thể hay biết.

Bảo rằng: Đó là vật trơn mịn vậy.

Nếu kiên cố nương tựa bên ngoài kẻ ấy chẳng phải là người trí chăng?

Loạn tưởng như vậy, hoặc do quả bên ngoài sanh ra, thảy đều quán sát bên ngoài duyên bên trong.

Trong đó có chỗ nói: Tất cả đều chẳng tư duy sắc tưởng, không quán như vậy. Như quán sát tứ đại. Cảnh giới như vậy thảy đều quán sát. Hoặc quán một quả nhãn thức sanh biết bao quả. Lấy thức làm đầu, cho nên bại hoại, đối với trong đó nói như vậy, bên ngoài cũng có tạo bao nhiêu quả.

Giống như màu sắc nửa xanh nửa vàng, giống như cây đồng một gốc sanh bao nhiêu là quả là củ, mùa thu thì không có quả, hoặc tùy thời mà sanh, sự sanh tử của cái cây cũng lại như vậy. Thân chính là cội gốc, gốc sanh cành lá.

Giống như cảnh giới tam muội. Cho nên thức sanh ra quả là chính. Như vậy mà giác tri, lấy con mắt dụ như cái cây kia.

Nếu nhãn thức có sắc sở nhiếp, gốc của nó là sắc, làm sao để thành?

Đó là như đã nói về sự quán chiếu. Quán thì liền thấy mầu nhiệm. Nó hiện như vậy. Ngay khi hiện ra, đó là sanh ra chủng tử, từ từ tăng trưởng, ngay khi sanh mà thành quả.

Như tùy thời mà cây bị héo, quả của cây ấy không có sở nhân… để có quả. Đó là do tâm cấu nhiễm, đối với trong đó mà nói vậy, nhãn thức đều biết rõ, ngay lúc đó mà nói vậy, không phải ngay trung gian.

Giống như sắc kia duyên nơi quả kia mà sanh, như vậy duyên ý thức mà có cái cây sanh tử ấy. Nhãn thức là dẫn đầu, ở trong đó mà nói vậy.

Giống như bào thai dần dần tăng trưởng, nơi đó sanh nhãn thức, như vậy có nhãn thức, ở trong đó nói như vậy. Không phải ngay nơi nhãn thức, nếu khoảng trung gian đó mà chết, không có thân căn, nên nhãn căn không thể tạo ra.

Vì sao vậy?

Hoặc là bên ngoài không nương vào gốc của căn quả, hoặc là quả đồng ảnh. Ở đó, tại sao nói…tất cả thân căn, vì quá khứ không dựa vào vô căn, vì gốc của cây cỏ, quả, có sự bại hoại.

Lại có sự hiểu biết này: Bên ngoài không có hữu tình, nhưng bên trong là hữu tình, trong đó nói như vậy, tại sao loài có tình tưởng lại có thật quả?

Giống như hoa trái ở bên ngoài. Ở đây gieo quả cũng lại như vậy, do đó hoặc là có tình, hoặc lại cùng đồng tình, trong đó quả thật có sự vô ngại.

Sao gọi là đang có niệm?

Trong Kinh nói như vậy, nghĩa ấy thế nào?

Hoặc có chỗ nói vậy, nơi kia không có trụ xứ?

Đáp rằng: Giống như vị kia không xứ sở, liền có sự thanh tịnh, bên ngoài không bại hoại, liền có nhân duyên ấy. Trong Kinh nói như vậy. Tứ Đại ấy tằng tượng, như sở y có quả, việc này chẳng phải vậy, nó lại là sở tri, những nghiệp đã làm ở bên ngoài không hiện ra. Giống như bên trong có vật sở hữu mà không đến nên gọi là cây.

Nếu có đến thì không gọi là cây. Trong Kinh nói như vậy.

Tại sao trong đất đó không bị bại hoại?

Đất đó cũng không có khí ấm, nếu y vào sự hữu ấy, thì hữu có tướng kiên cố, bị gió thổi, liền có thể biết được. Ở đây cũng vậy, nhưng bên ngoài có dược thảo, cây cối, bị vô thường, đoạn tuyệt, cùng tương ưng với sự bại hoại.

Phải luôn luôn quán sát như vậy. Nhân duyên vô thường, khổ, không, vô ngã cũng lại như vậy. Song ngoại  không thì vô sở hữu, chúng sanh cũng như vậy. Giống như vô ngã, nội quán cũng như vậy, huống ngay bên trong có tạo tư tưởng bên trong.

Chúng đều là ở bên ngoài. Giống như khi hạt giống ẩm thấp liền sanh cây, ở đây cũng vậy. Căn cứ đã dạy giống như thân tâm nương nơi pháp qua lại, châu biến. Ở đây đều không có sự nương tựa. Giống như tuổi thọ là nhờ hơi ấm, mạng căn và thức. Ở đây cũng vậy, không có bắt đầu và kết thúc.

Quán chí tánh chúng sanh

Bên ngoài đến cây cỏ

Thật không, vô quả thật

Với pháp nên phân biệt

Nó vốn có bại hoại

Với thân thảy, tư duy

Để diệt trần lao, kết

Năm căn cũng không còn.

Bấy giờ Tôn Giả Đại Ca Diếp, siêng tu khổ hạnh nên nhàm chán thân thể. Ngay nơi viên quán mà tự vui thích, thờ lửa không giải đãi, đồ chúng vây quanh, Y Tăng Ca Lê đã rách, tóc và móng tay rất dài.

Các căn thuần thục, bên trong đã hàng phục dâm, kinh hành qua lại để quán sát Ngài đều đã biết rõ, thích ở chỗ an nhàn, danh tiếng đồn xa, cho nên Tôn Giả được tâm đại từ bi, vượt hơn các vị tôn đức, người Trời cúng dường.

Ngài là đại phước điền, nên mọi người càng thêm cung kính lễ bái. Các người gặp sự khốn ách đều được Ngài độ thoát, vượt qua sanh tử, tuyến bố pháp tướng, hiển hiện sự hoan lạc, ủng hộ che chở chúng sanh như thờ cha mẹ không khác gì cả.

Ngài đã cúng dường như hòn núi không thể di động, vui mừng nhảy nhót, Tôn Giả muốn quán sát Đức Như Lai, muốn một mình ở chỗ an nhàn vắng vẻ, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, ưa thích được nghe pháp lạ. Tôn Giả đầu mặt lạy dưới chân Đức Thế Tôn rồi ngồi qua một bên.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn khen ngợi đức tính thiểu dục, liền bảo Tôn Giả Đại Ca Diếp rằng: Này Ca Diếp! Nay ngươi thân hình già nua, tuổi lớn không còn khỏe mạnh như lúc thiếu niên nữa, thân của Trưởng Lão không còn kham nhận nữa, dần dần suy yếu, ý mạnh mẽ không còn, lại không đắp y nặng đã may sẵn được dâng cúng, có thể hiện nay thân ngươi không thể mặc nổi y nặng, vì tuổi ngươi đã quá già. Có các Trưởng Giả mang y đến cúng dường thì hãy nên thọ nhân.

Bấy giờ Tôn Giả Đại Ca Diếp có đầy đủ tâm cung kính các pháp tưởng đối với Như Lai, liền từ tòa ngồi đứng dậy, quỳ dài bạch Đức Thế Tôn rằng: Sanh tử lâu dài, ý nghĩa đều không chân, thọ nạp sự vui khổ này, tâm con thường sầu lo. Các vị quý tộc trưởng giả, con cũng không thích đến nhà họ, để tự con được ở nơi không tịch một trong mười hai hạnh đầu đà con lại khen ngợi đức tính không tịch, tự mình thiểu dục lại khen ngợi đức tính thiểu dục.

Song xin Đức Thế Tôn, Chư Thiên chứng tri cho, nay con đối với quả đời này hoặc có lực hay không có lực, con thảy đều đội lên trên đầu, huống chi ngày hôm nay thân con không có dâm, nộ, si, kiêu mạn đã hết sạch, thanh tịnh không tỳ vết, xuất ly thế gian không tương ưng cùng thế gian.

Con đã được những điều như vậy, hôm nay vì sao con lại bỏ y phục thô xấu này?

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo rằng: Đó là lý do tại sao nói rộng như trong Khế Kinh.

Khi ấy Tôn Giả Đại Ca Diếp thưa rằng: Vì hai nghĩa cho nên con ở chỗ nhàn cư, hoặc lại có lời khen ngợi đức nhàn cư, tự ở trong hiện pháp muốn được hoan lạc, vì người đời sau nên chói sáng tung rải các đức như vậy, lấy đó để siêng tu khổ hạnh vậy.

Đức Thế Tôn bảo: Lành thay, lành thay, này Đại Ca Diếp, phải thường ưa thích sự nhàn cư.

Nói rộng như trong Khế Kinh.

Bấy giờ liền nói bài kệ này:

Người được tự tại gì

Đệ tử tu khổ hạnh?

Thanh tịnh không phiền não

Như trăng sáng giữa sao?

Như nay không hồ nghi

Người có đức lớn này

Nên gìn giữ chánh pháp

Trừ sạch các ô uế.

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất tự nương nơi trí huệ rất thậm thâm, không ngằn mé, như đại hải không có bờ, có thể kham nhận luận nghi cùng kẻ ngoại học, Ngài đều hàng phục tất cả, xưng dương thiện pháp, mà không làm mất lòng đối phương.

Ngài đã được giải thoát đối với ái dục, ý đã rõ biết sanh tử, đã chấm dứt nguyên nhân luân hồi các thú, liền đi đến chỗ Đức Thế Tôn.

Đầu mặt lại dưới chân Đức Thế Tôn bạch rằng: Con khởi lên ý nghĩa, thảy đều kiên cố như vậy. Con đã ở các nơi của ngoại đạo dị học. Nay con đến đây là muốn được uống nước Cam Lồ để trừ tất cả trói buộc, ý của con cũng không đắm trước đối với chỗ ở của mình.

Đức Thế Tôn đã vì con mà nói ý nghĩa như vậy, để trừ tai hoạn khổ não. Thế Tôn thuyết nghĩa như vậy xong, các người phàm phu đều ôm lòng sầu lo, học giả cũng ôm lòng sầu lo, các người không có sự hồ nghi, thảy đều muốn được nghe.

Bấy giờ Đức Thế Tôn tư duy trong giây lát bảo Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng: Các hành này đều là hữu vi. 

Bấy giờ Tôn Giả Xá Lợi Phất thường thích ở chỗ không nhàn, ưa thích nơi pháp, đảnh lễ đối với pháp, nhiễu quanh ba vòng, liền đứng ngay thẳng quán sát thân Đức Như Lai, rồi đến trong thôn Na La Đà, lấy cỏ trải dưới đất, nhập vào tam muội sư tử phấn tấn. Khi đã nhập vào định này rồi, dùng phương tiện ở chỗ Đức Như Lai, ngay nơi đó mà nhập Niết Bàn.

Bấy giờ Sa Di Quân Đầu, thường cung cấp những vật dụng cho Tôn Giả Xá Lợi Phất, đang cùng Ngài chuyển bánh xe pháp tôn quý, tu hành Phật Sự, là bậc Thanh Văn tối đại, tất cả người đời, không ai là không cúng dường, đem bình bát và ba pháp y của Tôn Giả Xá Lợi Phất cúng dường cho Đức Như Lai và Tôn Giả A Nan.

Khi đến xong liền thưa với Tôn Giả A Nan: Vị thầy mà con tôn thờ nay đã diệt độ!

Tôn Giả A Nan hỏi Sa Di Quân Đầu: Thầy của ngươi là ai?

Tên là gì?

Thưa rằng: Thầy của con tôn thờ tên là Ưu Ba Đề Xá, nay đã Bát Niết Bàn. Đó chính là Tôn Giả Xá Lợi Phất vậy. Khi ấy Tôn Giả A Nan nghe lời ấy xong, liền ôm lòng sầu lo, bị lưới ngu si bao phủ, bị tâm ý thương nhớ Tôn Giả Xá Lợi Phất mê hoặc, không còn hay biết gì nữa.

Sầu phiền trong giây lát như vậy liền dẫn Sa Di Quân Đầu đi đến chỗ Đức Thế Tôn, lấy lời trên bạch đầy đủ với Thế Tôn rằng: Hôm nay thân con đau đớn vì nghe Tôn Giả Xá Lợi Phất đã nhập Bát Niết Bàn, nói rộng như trong Khế Kinh.

Đức Thế Tôn bảo: Vị ấy đã trì  giới  thân mà mất chăng?

Và cũng đem theo pháp mà ta đã giác ngộ mà mất chăng?

Đó là bốn ý chỉ, nói rộng như trong Khế Kinh, nhưng, này A Nan, các hành không thể bảo trì lâu dài được, tất cả đều phải bại hoại.

Này A Nan, các hành vô thường, không có thường tồn, cũng không phải vì vậy mà không quán sát thiện hạnh.

Này A Nan, các hành là cái không thể nương tựa.

Này A Nan, nó làm hưng khởi khổ, cánh lạc, ôm lòng điên đảo.

Này A Nan, hành là vô ngã, không được tự tại.

Này A Nan, các hành khó có thể xả bỏ, thường thọ hữu giáo.

Này A Nan, hành có sự nguy hại thảy đều không tịch.

Này A Nan, nên xa lìa các hành gấp, vì nó khởi lên các tưởng khổ lạc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Sa Di Quân Đầu rằng: Ngươi hãy đem các vật của Tôn Giả Xá Lợi Phất để trong bàn tay của ta. Khi ấy Sa Di Quân Đầu liền dâng cho Đức Như Lai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn duỗi cánh tay rất mềm dịu, có sắc vàng rồng, nhận lấy.

Khi ấy Đức Thế Tôn nhận Xá Lợi của Tôn Giả, rất thanh tịnh, không có tỳ vết, tâm ý hoan hỷ, ai xem cũng vui mừng, đem để ở chỗ kín đáo.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng: Này các Tỳ Kheo, hãy đảng lễ Xá Lợi của Tôn Giả Xá Lợi Phất, rồi tự tán thán, danh văn của Tôn Giả truyền xa, là bậc tối tôn diệu trong hàng thanh văn. Chỉ có một vật tồn tại ngoài ra tất cả đều đã biến mất, các loài hữu tình đều muốn cái vui ấy.

Tôn Giả hiện ra thần túc để trừ bỏ cấu trược, Tôn Giả lại có ánh sáng ấy, thảy đều trùm khắp, giả như đang có sắc ấy, phải nên lễ bái trí huệ của Tôn Giả. Ngài có danh xưng, tất cả thế gian thảy đều làm cho sung mãn.

Đó là Tôn Giả Xá Lợi Phất, đối với ba cõi thân được tự tại, hương lành huân ướp, cho nên cần phải lễ bái vị có công đức như vậy. Tôn Giả vì đời hiện ra ánh sáng, có nhiều công đức, phải học giải thoát, để đến bờ bên kia.

Khi ấy Đức Thế Tôn cũng sắp xả bỏ tuổi thọ.

Bấy giờ Đại Địa chấn động lớn, bốn phương sấm chớp nổi lên, Chư Thiên đứng nghẹt cả hư không, ca xướng kỹ nhạc, có một luồng ánh sáng lớn, không nơi nào mà không được chiếu sáng, mây và sương mù bao phủ đất Trời, làm cho lửa cháy vẫn không có ánh sáng, có lời truyền rao như vậy rằng: Tất cả người trí nên thủ lấy sự diệt độ.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan, vào lúc sáng sớm, từ tòa đứng dậy, đi đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt lạy dưới chân Đức Thế Tôn, đứng qua một bên hỏi Đức Thế Tôn rằng: Do nhân duyên gì khiến cho mặt đất chấn động mạnh, mà tâm Thế Tôn vẫn không di động?

Đức Thế Tôn liền bảo rằng: Này A Nan, có tám nguyên nhân làm cho quả đất chấn động mạnh. Lại nữa, này A Nan, nếu có vị Thanh Văn đệ nhất thập Bát Niết Bàn, Đức Như Lai cũng sẽ nhập Bát Niết Bàn, nên có sự ứng điềm lành như vậy.

Tôn Giả A Nan bạch Đức Phật: Hôm nay Đức Thế Tôn cũng sẽ bỏ tuổi thọ sao?

Đức Thế Tôn đáp rằng: Đúng vậy, này A Nan, ta cũng sẽ bỏ tuổi thọ. Bấy giờ Tôn Giả A Nan tự nhào xuống đất. Nói rộng như trong Khế Kinh.

Bạch Đức Thế Tôn rằng: Chính con nghe từ kim khẩu Đức Như Lai nói rằng: Nếu có các Tỳ Kheo tu bốn thiền thần túc, có thể sống ở đời một kiếp cho đến vô số kiếp. Nói rộng như trong Khế Kinh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn ý Ngài không di động, nói những lời ngôn giáo như vậy rằng: Thế nào A Nan, chẳng phải ta đã hai, ba lần báo với ngươi rồi sao?

Bấy giờ Tôn Giả A Nan biết Đức Thế Tôn không bao giờ nói hai lời, cho nên Tôn Giả im lặng mà đứng.

Giống như ghe thuyền trong đại hải nếu bị vỡ thì không làm sao có thể đến bờ bên kia được, nên bạch Đức Thế Tôn rằng: Từ đức Tùy Diếp Thế Tôn đến nay, cảnh giới của đức Tam Da Tam Phật ấy nhân dân thảy đều được thành tựu. Hôm nay cảnh giới của Đức Như Lai, Ngài đã tu hành rất cần khổ, tinh tấn, huệ thí, không có hạn lượng.

Nhưng như hôm nay thọ mạng của chúng sanh thì ngắn ngủi, sự giáo hóa chúng sanh vẫn chưa hoàn tất?

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo: Nay ngươi làm thế nào để thế gian được hòa bình, thịnh vượng, không có sự sợ hãi khổ nạn?

Khi có vị Pháp Vương xuất thế, vị Chuyển Luân Thánh Vương lấy pháp để giáo hóa, cây cối thảo dược không sao kể hết, tất cả lao ngục, giam cầm đều được phóng thích, hoặc lại có các đảnh nước sôi ở thế gian, như Chuyển Luân Thánh Vương, tất cả các lao ngục giam cầm thảy đều được giải thoát, không bị các khổ ách. Ngài có ân từ đối với các chúng sinh.

Sao gọi là Ngài có ân từ đối với các chúng sanh?

Bấy giờ Tôn Giả A Nan bạch Đức Thế Tôn: Đức Pháp Vương là bậc nhất, xuất hiện ở thế gian, những ai gặp nguy ách khổ não, Ngài có thể giải thoát khỏi khổ não.

Đức Phật dạy: Giống như, này A Nan, thời thái bình có Chuyển Luân Thánh Vương, ở thời Đức Phật Tùy Diếp xuất thế cũng lại như vậy. Giống như lao ngục kiên cố đều được độ thoát.

Này, A Nan, như thọ mạng của ta hôm nay rất ngắn, xuất hiện ở thế gian, các chúng sanh ấy, giống như người sanh trong kiếp đao kiếm, cái ác kiếp ấy có các kiết sử sâu dày, chưa thể lìa khỏi kiết sử ấy, họ nương vào các thứ tà kiến, có kiết sử tà kiến, vì dục phi pháp cho nên có dục kiết sử ngay khoảng giữa của các chúng sanh ấy, sanh ra các thứ như vậy. Vì cuộc đời ác trượt cho nên sự giáo hóa rất ít, nên chúng sanh ấy cần phải siêng tu hạnh này.

Này A Nan, Lúc ta chưa đắc đạo thì ta là con khỉ. Ta không tiếc thân mạng, khiến cho đồng loại của ta đều được độ thoát, không ai mà không được độ.

Lại nữa, khi xưa lúc ta làm con sư tử thì ta đã độ thoát đoàn người thương nhân khi họ vượt qua ác đạo, nhờ ta tu phạm hạnh đã lâu rồi.

Bây giờ này A Nan, trong các cảnh giới ta sanh đến không có chúng sanh nào không được ta cứu độ.

Này A Nan! Ngay khi ấy ta lại làm thân người ở trong nước Ma Kiệt, cứu vớt mọi người. Lại khi ta làm chim Thanh Tước, đã độ thoát vô số thương nhân.

Ta lại làm Đại Tiên Nhân độ thoát vô số Phạm Thiên. Ngay lúc ta được tám tuổi ta thệ nguyện ý không thối chuyển, thân mặc áo cỏ, cần tu khổ hạnh, ở nơi nhàn tịnh để tu hành, đều được hộ trì.

Thế nào A Nan, ta đối với thiên hạ của cuộc đời mê hoặc này làm một trận mưa pháp. Khi ấy Thích Đề Hoàn Nhân liền cho đổ mưa.

Bấy giờ, này A Nan, khi ta chưa sanh, thương yêu chúng sanh như con một. Lại nữa này A Nan, ta vì các chúng sanh nên trong một kiếp, ta thế họ mà chịu sự khổ trong địa ngục, vì các chúng sanh mà chịu sự khổ như vậy.

Lại nữa, này A Nan, nay thân của ta do cha mẹ sanh ra, không có oán địch nào cói thể hại thân ta được. Thân ta là Kim Cang tam muội, phân biệt các thứ tam muội. Nếu sau khi ta diệt độ, nếu ai cúng dường Xá Lợi thì nhỏ như hạt cải đi nữa, thì công đức ấy cũng vô cùng.

Bấy giờ liền nói bài kệ này:

Từ lúc mới phát ý

Việc Ngài làm bậc nhất

Ngài là bậc thượng nhân

Ai có thể bằng Ngài

Hoặc cha mẹ vợ con

Đời nay được tự tại

Mạng chung liền bỏ thân.

Này A Nan, nay ngươi hãy vì Đức Như Lai đến giữa cây Song Thọ. Nói rộng như trong Khế Kinh.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan, vâng theo lời Phật dạy, liền suy nghĩ rằng: Hôm nay Đức Thế Tôn Niết Bàn thật sao?

Tôn Giả liền sầu não, song không dám trái lời Phật dạy, liền sợ hãi, đi đến giữa cây ấy, đều là do túc mạng cùng theo đuổi, nên mới cần khổ như vậy, muốn trình bày ý nghĩ mình, nhưng lại hồ nghi, làm sao đễ trình bày điều này, liền bạch Đức Thế Tôn: Con đã làm xong. 

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền đi đến chỗ ấy, khi Đức Thế Tôn cất bước muốn đi.

Lúc ấy tâm ý của Tôn Giả A Nan bị thiêu đốt, liền sanh ra tâm này: Đây là huyễn mộng chăng?

Hay là sự thật chăng?

Tôn Giả suy tư, do dự như vậy xong, liền trở lại tâm chân chánh. Đó gọi là vô thường.

Chúng sanh lưu chuyển mà không thoát khỏi tai hoạn này. Khi ấy Đức Thế Tôn từ từ đi đến giữa cây Song Thọ, ở khoảng giữa đó, có Chư Thiên đứng đầy cả hư không.

Có người thì ca hát, kỹ nhạc, nhan sắc không thay đổi. Có người thì khóc lóc, rơi lệ, các chúng A Tu Luân nhiều vô số. Họ hy vọng đối với giáo pháp, cung kính đối với giáo pháp.

Bấy giờ họ liền nói bài kệ rằng:

Bậc tôn quý bậc nhất

Vì các loại chúng sanh

Pháp Ngài cũng Vô Thượng

Nay Ngài sắp diệt độ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đi đến ngồi giữa cây Song Thọ, khi ấy ở giữa cây Song Thọ Chư Thiên cùng bải nhau rằng: Đối với cuộc đời tao loạn, bậc nhất thiết trí sắp diệt độ, tại sao Ngài lại bỏ tất cà nhân dân, mà lại diệt độ?

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Nếu ai vì nghĩa mầu

Ban hưởng Cam Lồ vị

Ngài có năng lực này

Nhưng nay phải diệt độ

Như bánh xe Kim Cang

Nhân dân đều khen ngợi

Bánh xe có thể hư

Thế Tôn khó bị hoại.

Ở khoảng giữa đó, Ngài dốc lòng tu pháp quán vô thường, sức mạnh tinh tấn không thể phá hoại. Các chàng trai trũng đều vô thường.

Các Đức Phật Thế Tôn cũng diệt độ, tai hoạn này rất khổ não, liền nói bài kệ này:

Phải tư duy cho kỹ

Sắc tượng phải luân chuyển

Do cảnh lạc trói buộc

Thọ các sự khổ não

Trong đó hoặc có người nói bài kệ:

Khởi thủy sanh là khó

Do ấm mà có danh

Không sanh thì không hoại

Có ai thoát nạn này?

Trong đó hoặc có người nói bài kệ, vô thường do đó mà sanh.

Khi giác ngộ ban đầu

Tất cả niệm đều thành

Ngài có sắc như vậy

Chư Phật không thường trụ

Hôm nay chúng nên tu nghiệp gì?

Bấy giờ Đức Thế Tôn thuyết bài pháp này lần cuối cùng. Cho nên cần phải siêng năng tu tâm, bậc phước điền cũng không thể giữ lại sắc thân này, mà phát tâm hoan hỷ.

Bấy giờ ở trong vườn Bà La, Chư Thiên thảy đều đảnh lễ Đức Thế Tôn, tung lên biết bao hoa Mạn Đà La, họ đều khóc lóc rơi lệ, liền nói bài kệ này:

Ai quan sát Như Lai

Ngày đêm không giãi đãi

Khi Ngài sắp diệt độ

Bỏ thân hình Tứ Đại

Cần khổ là đức Ngài

Chưa từng sai chánh pháp

Để vượt biển sanh tử

Nay phải bỏ ấm, Nhập.

Bấy giờ Đức Thế Tôn lúc sắp nhập Niết Bàn, Ngài bảo các Tỳ Kheo: Này các Tỳ Kheo, ai có hồ nghi gì, hãy đến hỏi ngay. Cho đến tất cả hành đều không có tịnh thường.

Vì sao?

Tôn Giả A Na Luật, Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn thật sao?

Khi đó các vị Phật Tích, Kim Cang, lực sĩ đứng sau Đức Như Lai, quan sát nhan sắc, gân cốt chi tiết trong người của Ngài, thảy đều kiên cố có thể kham nhậm chịu đựng được, Ngài cũng có thể còn sức để thuyết pháp vi diệu.

Họ liền khóc lóc mà nói bài kệ rằng:

Không bẩn không tỳ vết

Ai che chở thế gian

Giống như sắc vàng tía

Nay phải bỏ thân này

Giống như ở thế gian

Tuổi già thì phải chết

Thích Ca Văn, họ Thích

Vô tưởng hằng tịch diệt.

Trong đó hoặc có người nói: Thôi đi, thôi đi, đừng nói lời ấy.

Khi ấy họ ôm lòng ảo não, liền nói rằng: Tự nhớ Đức Thế Tôn từ Cõi Trời Đâu Thuật giáng thần, sanh xuống nhân gian, nhớ Ngài có ngàn vạn Chư Thiên, nhờ công đức của Ngài mà họ đều mặc áo xanh, có oai thần lực, cho nên sức mạnh không thể phá hoại Ngài được, có năm trăm vị không thối chuyển. Lại có mười hai đại Quỷ Thần, ai thấy cũng đều hoảng sợ, đều muốn đến hộ vệ Đức Như Lai.

Họ tư duy như vậy, lại nói rằng: Mỗi chi thể của Đức Như Lai đều phát ra hòa quang sáng rạng, và bảo chúng tôi rằng: Hãy ra lệnh Chư Thiên như vậy: Bảo thần Hộ thế đến đây.

Ngay chỗ ấy họ nói rằng: Chúng ta hoan hỷ, thừa sự cúng dường như khi Ngài còn ở trong thai, trong khi mộng mị cũng không xa lìa. Chúng ta nhiễm trước chúng sanh đời này kiên cố, do đó mà có cái tưởng khổ, vui, có tưởng cha và mẹ, có tưởng tất cả thế gian đều vô thượng, vi diệu do hộ thế tạo ra, có tưởng anh em, vì thọ nhận của tín thí cho nên có tưởng là phước điền, vì tâm không tà vậy, nên có tưởng chế ngự.

Vì bị dục trôi dạt cho nên có tưởng là thuyền trưởng. Vì bất khả đắc, cho nên có tường là của báu, vì đại từ bi cho nên có tưởng là che chở thế gian. Như thân Kim Cang của ta ngày nay, không thể phá hoại thành trăm mảnh được.

Hoặc có chỗ nói: Thân này chắc chắn phải có quả báo.

Vì sao vậy?

Vì cúng dường Đức Như Lai vậy.

Bấy giờ, Mật Tích Kim Cang lực sĩ liền nói: Việc này thế nào?

Khi Thái tử cỡi xe ngựa ra khỏi thành. Khi trở về bảy ngày không ăn, sanh ở Cõi Trời Thứ Ba Mươi Ba. Huống chi nay chúng ta, tôn thờ vâng lời dạy của Đức Như Lai để vào trong lổ tai, rồi đọc tụng, tất cả đều học tập, độ thoát chúng sanh vô lượng.

Nếu lại có cái biển châu báu, ta phải mong cầu chứ?

Bấy giờ Mật Tích Kim Cang lực sĩ có hai vị Hiền Thánh luận thuyết kệ rằng:

Ngay nơi chỗ Thần Long

Kim Cang hiện ở biển

Vì sao phải ủng hộ

Sư tử rống như vậy.

Khi ấy họ suy tư, lại nói kệ:

Giống như biển thâm sâu

Không ai hơn đức Ngài

Ở đời tu tinh tấn

Đức lớn không bến bờ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn ở nước Ba La Nại, Ngài chuyển pháp luân, lúc mới chuyển pháp luân, làm lợi ích cho chúng sanh rất nhiều. Ngài ở đó tọa hạ an cư làm lợi ích cho quốc vương nước Ma Kiệt.

Lần thứ hai, ba và thứ tư Ngài thuyết pháp ở đảnh núi Linh Thứu, lần thứ năm ở Tỳ Thư Ly.

Lần thứ sáu ở núi Ma Câu La cho mẹ Ngài nghe.

Lần thứ bảy ở cung Trời Thứ Ba Mươi Ba.

Lần thứ tám ở cõi quỷ thần.

Lần thứ chín ở nước Câu Khô Ù Tỳ.

Lần thứ mười ở trong núi Chi Đề.

Lần thứ mười một lại nói ở cõi quỷ thần.

Lần thứ mười hai ở chỗ nhàn cư của Ba Già Đà.

Lần thứ mười ba lại thuyết ở cõi quỷ thần.

Lần thứ mười bốn ngay chỗ Đức Phật đang tu hành ở tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây ông Kỳ Đà, nước Xá Vệ.

Lần thứ mười lăm ở trong thôn dòng họ Thích, thuộc nước Ca Duy La Vệ.

Lần thứ mười sáu lại thuyết ở nước Ca Duy La Vệ.

Lần thứ mười bảy ở thành La Duyệt.

Lần thứ mười tám lại ở thành La Duyệt.

Lần thứ mười chín ở trong núi Cha Lê.

Lần thứ hai mươi tọa hạ an cư ở lại thành La Duyệt.

Thứ hai mươi mốt, lại ở trong núi Cha Lê, trong cõi quỷ thần, không đi các nơi khác, liên tục bốn mùa an cư.

Trong mười chín năm không qua chỗ khác, Ngài tọa hạ an cư ở nước Xá Vệ.

Như vậy Đức Như Lai khi tọa hạ an cư lần cuối cùng, trong nước Bạt Kỳ, tọa hạ ở trong thôn Tỳ Tướng. Đức Thế Tôn đã vượt qua hang sâu ái dục, như vậy. Thuở xưa Chư Phật đã làm huệ thí, lợi căn đều đã thành tựu. Các hạnh đầy đủ, kẻ chí tánh nhu hòa đã được độ thoát tất cả tiếp theo độ hạng trung căn. Rồi độ cho hạng hạ căn.

Khiến họ dần dần được quả Tu Đà Hoàn, cùng diễn thuyết cho kẻ ngoại học, Đức Thế Tôn đã độ tất cả, bấy giờ liền nhập Niết Bàn.

Khi ấy liền nói bài kệ:

Muốn độ kẻ ngoại học

Đại giác không ai bằng

Tự giác rồi độ người

không chìm trong hang thẳm

Trải qua các thứ vui

Cùng lúc thêm ích lợi

Bấy giờ sanh hoan hỷ

Đều được đến bỉ ngạn.

Như nay Ngài thanh tịnh, không có chút ô uế nào, những chỗ sanh ra thường gặp chỗ lành, việc làm đã thành tựu, cũng không có các ngạo mạn, nhờ các công đức đều được thành tựu. 

Nhờ cảnh giới ấy cho nên tương ưng thành tựu. Vì ân cần cho nên sự sanh thảy đều thành tựu, vì cứu tế bạt trừ khổ ách, nên được thành tựu đến chỗ vô vi, nếu sanh ở nhà hào quý thì cư gia thành tựu, nhờ sắc thân vi diệu cho nên thân thuộc thành tựu cho nên.

Vì việc làm đầy đủ, cho nên chỗ vô vi thành tựu.

Vì có hạn lượng cho nên làm việc gì cũng thành.

Vì đoạn trừ các thứ kiết sử cho nên thành tựu sự hàng phục.

Vì đã hưng khởi hạnh nghiệp cho nên thành tựu thệ nguyện.

Vì trồng các công đức chưa từng vi phạm, cho nên việc làm thành tựu.

Nhờ thành tựu oai nghi, nên thành tựu các công đức luật nghi.

Nhờ thành tựu việc diễn thuyết bốn ý chỉ của oai nghi, nên thành tựu phân biệt ngôn giáo cảnh giới, nhờ thành tựu việc hưng khởi, trí tuệ tập chúng đã xả các hữu thành tựu các giới ba cụ túc luật nghi, nhờ trí chuyên tâm cũng không dựa vào thiền, nên thành tựu tam muội.

Nhờ phân biệt như thật về cảnh giới ấy, nên thành tựu trí tuệ, nhờ đoạn trừ các kiết sử, cho nên thành tựu giải thoát.

Nhờ đoạn trừ các sự ngu si, cho nên thành tựu giải thoát kiến huệ.

Nhờ tập hợp các công đức, nên thành tựu tất cả.

Nhờ đã được tịch diệt, nên thành tự chỉ quán.

Vì vậy con đảnh lễ Bậc Thập Lực.

Bấy giờ liền nói bài kệ:

Sắc Ngài khó nghĩ bàn

Đức Phật đã giác ngộ

Ba đời đều xưng dương

Thần tiên đến bỉ ngạn

Với đời đã chấm dứt

Vĩnh viễn không khởi diệt,

Đại trí thông bậc nhất

Tất cả được tự tại.

Nghe rằng: Đức Như Lai sau khi Niết Bàn một trăm năm, bậc nhất thiết trí thấy xuất hiện ở thế gian. Ở thành Khi La Lê có một vị Vua tên là A Thúc, oai đức vòi vọi, giống như vị Vua Cõi Trời không khác, Vua có đại oai đức, thông minh trí tuệ tuyệt đỉnh, có thể luận nghị với bất cứ ai, xem dân như con đẻ.

Nhà Vua buổi tối lúc sắp đi ngủ, liền suy nghĩ rằng: Nay nguyện ta đã thành cũng không có mong cầu, nên ủng hộ nhân dân, nay nên làm phương tiện gì và làm việc gì nên hưng khởi việc gì, để nhân dân ở đời được nhờ vào oai đức của ta?

Khi Vua suy nghĩ như vậy xong liền đi ngủ, ở trong giấc mộng liền nghe bài kệ:

Quán sát thật vi diệu

Ba đời đều kính thờ

Ngài rộng thí Xá Lợi

Bậc tối thắng diệt độ.

Khi nghe lời nói ấy rồi, Nhà Vua liền tỉnh giấc.

Khi Nhà Vua đã tỉnh rồi, liền than rằng:

Lành thay chúng sanh kia

Sau khi đã diệt độ

Trời Xá Lợi đã truyền

Chúng con phải kính lạy.

Lời khẩu truyền, khi tai đã được nghe, bấy giờ đại vương triệu tập quần thần đại chúng, đem nghĩa này để hỏi rằng: Ta nên dùng điều gì để cảm hóa nhân dân?

Các quần thần và nhân dân đều tâu rằng: Hoặc là cúng dường Xá Lợi của Như Lai, hoặc là tế tự thờ cúng Thần Trời.

Bấy giờ Nhà Vua liền nói rằng: Nên dùng lời chí thành để ủng hộ pháp này. Đêm qua trong giấc mộng ta có nghe lời ấy, suy nghĩ đến Xá Lợi của Phật hết sức quí giá, ví đời này cho nên chúng ta nên ủng hộ nhân dân của thế gian, tự mình đã được phước, chúng sanh lại được độ thoát, công đức vô lượng, nên thực hành oai nghi, ân từ, đều khiến mọi người thấy được ánh sáng.

Ở trong mộng, ta có nghe lời nói ấy.

Lại nói bài kệ:

Nếu nghe âm vang ấy

Đạo Tràng, tự hay biết

Ngài là Thích Sư Tử

Nên cúng dường Xá Lợi.

Bấy giờ Nhà Vua mời các Tỳ Kheo lại lấy nghĩa trên để hỏi.

Các Tỳ Kheo bảo: Lấy Chánh Pháp để chỉ giáo.

Khi ấy Nhà Vua lại nói với các Tỳ Kheo: Chư Hiền đã nói về giấc mộng mà tôi thấy, chắc là đời trước tôi đã trồng gốc đức. Khi ấy Nhà Vua thọ bát quan trai trong tám ngày, mặc toàn vải trắng, đánh chuông, gõ trống, tấu kỹ nhạc, khảy đờn cầm, đờn sắc, đánh trống, thổi tù và, đốt các thứ hương, ở trong thành La Duyệt mà mong được Xá Lợi.

Nhà Vua nghe trong thành ấy có quyển sách bằng vàng Vua đã thấy được hình dạng của quyển sách ấy, là do Nhà Vua đời trước đã bố thí nên mới thấy được sách ấy. Từ khi Vua nghe trở xuống là lời của các Tỳ Kheo.

Nhà Vua suy nghĩ giây lát liền nói: Điều ấy chắc chắn phải được quả báo vi diệu. Thật ra tôi muốn mở cái tráp đồng để thấy lời văn trong đó, Nhà Vua liền mở ra và thấy có quyển sách bằng vàng và thấy lời văn trong tráp đó. Quyển sách đó do Vua A Xà Thế ghi chép lời huyền ký của Đức Phật là có Vua A Thúc ra đời.

Nhà Vua thấy sự chứng nghiệm ấy liền cùng mọi người đọc bản văn này: Trong thành La Duyệt của nước Ma Kiệt có một vị trưởng giả tên là Ba La Mật Đa La, ông ta có một người con trai tên là Tỳ Xà Da Mật Đa La.

Người trưởng giả thứ hai tên là Ba Tu Ba Đà La có một người con trai tên là Ba Tu Đạt Ma.

Hai người con của hai trưởng giả này đang vui chơi ở đầu ngã tư đường.

Trong khi họ đang vui chơi, thì con của trưởng giả tên là Tỳ Xà Da Mật Đa La trong lòng hoan hỷ, mới lấy tay bụm đất dâng cúng Đức Phật, lại có tâm giúp đỡ những ngước tâm hoan hỷ làm việc ấy.

Sau khi Đức Như Lai nhập Niết Bàn một trăm năm, thì Tỳ Xà Da Mật Đa La sẽ xuất hiện ở thế gian. Nhờ công dức lấy đất cúng dường cho Đức Phật, nên có một vị Vua tên là A Thúc sanh trong giòng họ Một Da.

Khi ấy Nhà Vua đọc văn tự này, liền hoan hỷ khen là chưa từng có, do đó Vua ra lệnh các quần thần cùng đọc quyển sách vàng ấy, thì cũng giống như Vua đã đọc không khác.

Lời ký rằng: Người sẽ thống lĩnh toàn nhân dân của thế giới này, nhưng Ngài không khen ngợi Ba Tu Bạt Ma.

Khi ấy Nhà Vua than rằng: Lành thay, bậc đại phước điền, làm một chút bố thí mà được công đức to lớn, tâm được hoan hỷ.

Hoặc có chỗ nói rằng: Ta lấy Xá Lợi của bảy Tháp, phân bố rộng rãi để hóa độ thế giới. Lành thay, Nhà Vua lúc đó thật là bậc trí tuệ chưa từng có, đã hoan hỷ lấy Xá Lợi của ta.

Ở trong hư không nghe tiếng nói của Thần Thánh, mới nói bài kệ này:

Nên phát tâm hoan hỷ

Đức lành khó nói được

Nên tung rãi công đức

Đem Xá Lợi giáo hóa.

Vị Thiên Vương đối với Xá Lợi của Ngài, mưa biết bao thứ hoa.

Bấy giờ Nhà Vua dựng tám vạn bốn ngàn cái Tháp, hoàn thành trong một ngày.

Khi ấy Nhà Vua bảo quần thần: Ngài có ngôn giáo Chân Đế như vậy, được thế gian khen ngợi, phân bố Xá Lợi của Đức Phật khi Ngài đã diệt độ cho thế giới, cũng không có các kiết sử, thân thanh tịnh như vàng ròng, cũng giống như tuyết trắng, quán xem mặt đất này chưa từng khởi lên điều ác.

Ngài cũng như thế, thấy mặt đất này đã che chở muôn loài, điều Ngài giáo thọ, trí không lay động, ở trong hang cốc trên đỉnh núi cao, không vô hạn lượng, huống đang thống lĩnh tất cả, tất cả mặt đất là phước điền, Đấng Thập lực quán sát chúng sanh loại đã dựng Tháp Chùa, không có tăng giảm. Bấy giờ Xá Lợi của Đức Thế Tôn chỉ vì tất cả chủng loại, mỗi mỗi tạo ra bao nhiêu luận thuyết.

Khi ấy Nhà Vua nói rằng: Giống như sức mạnh của vô số Kim Cang tam muội này làm cho nát xương mà tự được xả, an tịnh.

Làm sao để độ chúng?

***