Chị Hai
(Y Nguyên )
Giờ chị đã thành một bà nông dân U60 thứ thiệt: già, đen, lam lũ. Vậy nhưng, trong ký ức chụp giật của mình, tôi nhớ Hai ngày xưa đẹp gái. Gọi “chụp giật” bởi trong nhà Hai con đầu còn tôi con út; đương nhiên, cái ký ức kia phần nào rất… xa xôi vời vợi.
Người ta sẽ hỏi ảnh chụp? Vâng, cũng có, nhưng là trước kia. Nhà Hai đất trũng gần sông, hai mươi năm chạy lụt liên miên gạch đá còn trôi chứ nói gì ảnh.
Tôi bị tai nạn giao thông. Cú ngã dập xuống đường gây nứt hộp sọ, xuất huyết màng nhện não và liệt dây thần kinh số 6. Về từ cửa tử, ký ức lúc đầu mất sạch; sau phục hồi loáng thoáng, nham nhở như từng mảnh vỡ chiếc bình cổ chủ nhân lỡ tuột tay rơi tiếc nuối nhặt lại. Mảnh còn mảnh mất. Vậy nên không nhớ hồi đó mình bao nhiêu tuổi. Chỉ nhớ những lần anh Hai xuống dẫn hai chị em ra sân bãi gần chợ coi phim Tề Thiên. Phim dụ con nít gớm. Đi được một hai lần gì đó mà nhớ như in. Còn đám cưới Hai tôi lại không nhớ. Chỉ mang máng có mấy tấm ảnh, tôi cùng thằng Sói em họ ló hai cái mặt hề chen giữa cô dâu chú rể. Chuyện nghiêm túc coi như thua toàn tập, nhớ mỗi chuyện xàm…
Chị Hai lấy chồng khổ bầm khổ dập. Người ta nói anh Hai con một, con cưng, thời trai trẻ có điều kiện ăn chơi sung sướng. Sướng đâu không biết, tới chừng lên giúp chị trông cháu tôi mới tá hỏa: cái nhà đó cũng nhà gạch, nhưng ọp ẹp tới mức tưởng chừng người lực lưỡng lấy tay xô phát sẽ… sập!
Sau này, nghe kể, ba mẹ anh em nhà tôi phải chung sức chung tay, thêm tiền bạc phụ giúp mới xây cho anh chị được cái nhà ba gian không tô, mót tôn cũ lợp làm chái bếp. Vậy nhưng nhà rách vách hư, làm lụng vất vả với Hai mới khổ một. Cực kỳ khổ chính là chuyện mẹ chồng con dâu không thuận. Chị Hai tốt tính nhưng ngang ngạnh. Mẹ chồng chị lại thuộc mẫu gia trưởng, cay nghiệt. Người ta bảo: làm vợ con trai một rất khổ bởi mẹ chồng mang tâm lý… “ghen” với con dâu! Chẳng biết đúng vậy không, chỉ biết chị Hai ngoài chuyện làm lụng vất vả còn bị ăn chửi, ăn đòn của mẹ chồng bất kể giờ giấc. Nửa đêm đang ngủ vẫn bị lôi đầu ra đánh. Anh Hai ở nhà còn đỡ; hôm nào anh đi vắng xem như Hai “lãnh đủ”.
Ngang ngạnh cỡ nào Hai vẫn phận dâu con, sao dám xúc phạm mẹ chồng; vậy nhưng chẳng hiểu sao bà cụ lại ghét Hai đến vậy. Ghét tới mức không thèm ngó ngàng luôn tới mấy đứa cháu nội. Ghét tới mức lúc bị tai biến nằm liệt, ăn uống ỉa đái tại chỗ còn xanh rờn tuyên bố: tao không dễ chết đâu, bây đừng vội mừng! Câu nói âm u, rin rít vọng trong căn nhà tối tăm chìm lấp giữa khu vườn nửa hoang chằng chịt cây lá tre pheo nghe ghê gớm như một lời nguyền.
Lời nguyền thật: cụ nằm liệt, “báo” người thân (nặng nhất đương nhiên là Hai) hơn năm năm mới chịu mất. Chưa hết; đoạn cuối đời mê lẫn, mỗi lần tiểu/đại tiện cụ lại lăn lê trây trét chất thải tùm lum ra áo quần giường chiếu. Chị Hai đi làm về bước qua ngõ hễ nghe mùi thối là mệt mấy, đói mấy cũng phải hộc tốc chạy vào xăn tay “giải quyết hậu quả” để anh Hai về khỏi trách. Cứng cỏi, ngang ngạnh như chị mà cũng không hiếm khi cùng cực tủi phận, nước mắt chảy ròng…
Sau này chị Hai quy y Phật. Tu tại gia. Ăn chay trường. Dự thuyết pháp, nghe sư thầy giảng: chị với mẹ chồng ân oán với nhau từ tiền kiếp. “Nợ nần” kiếp trước nên kiếp này cụ theo đòi - cả vốn lẫn lãi! Nghe cũng hơi hơi… có lý. Nếu chẳng phải “nợ từ tiền kiếp” sao mẹ chồng lại có thể căm ghét đứa con dâu như Hai hệt kẻ tử thù?
Ngày còn cắp sách, Hai học hành không tệ. Nhà nghèo, con gái đầu, phải phụ mẹ cha làm lụng đầu tắt mặt tối vậy mà lẽo đẽo theo lên tận lớp 12. Còn thi đâu đậu đó mới chết. Mẹ luôn thở dài than vắn bởi đã lỡ ra điều kiện: học sao học, mỗi năm lên một lớp thì mẹ cho; còn đúp lại là… nghỉ! Cứ tưởng cảnh nhà cơ cực giỏi lắm lết tới lớp 9 đường nào cũng nghỉ (không tự nghỉ cũng… đúp!). Vậy mà không, Hai thi đậu chuyển cấp, lên luôn trung học phổ thông.
Học cấp III, trường cách nhà non hai mươi cây số đường đất, mùa mưa bùn lầy bánh xe dính bết. Khuya, Hai phải dậy từ ba rưỡi sáng, nấu cơm mang vượt hai con dốc với một con sông vô đồng trong cho cha mẹ làm ruộng có cái ăn xong mới về đi học. Khổ vậy mà nhất quyết không buông; cứ bặm môi cày hết ba năm. Xong lớp 12, Hai thi đậu luôn cao đẳng sư phạm! Cứ tưởng đời hết cơn bĩ cực; té ra ông trời cũng biết lừa. Lừa đau, rất đau: Không đi học được do… lý lịch xấu! Ước mơ cụt ngọn, đương nhiên buông sách bút mà lo cày cuốc, lấy chồng sinh con, thành chính hiệu nông dân.
Lạ một điều, sau này thi thoảng ăn cơm mới nói chuyện cũ, tôi mang cái ước mơ làm cô giáo bất thành ra hỏi chị Hai (có tiếc không?); chị trả lời, khá dửng dưng: tiếc gì? Tao đi học nữa thì ai phụ ba mẹ làm nuôi bây ăn học? Hồi ấy nhà mình khó lắm… Câu trả lời của Hai khiến tôi ứa nước mắt. cứ tưởng chị sẽ rất chi oán giận chuyện thời thế đã đẩy đưa tương lai chị vào ngõ cụt; nào ngờ chị tôi có cách nghĩ xa, rất khác. Nghe mẹ kể: ngày ấy bị phòng tuyển sinh huyện thu hồi giấy báo, chị về nằm khóc đúng một ngày một đêm. Rồi thôi. Gạt nước mắt dậy đi lo công việc, tỉnh bơ như không có chuyện gì…
Ba mẹ già yếu sống nơi căn nhà cũ, con cái tứ tán mỗi đứa một phương, lâu lâu có việc hiếu hỉ hay trái gió trở trời chị Hai chạy về nhanh nhất.
Anh Ba con trai cả, nhà gần nhưng khi nào cũng lếch thếch về sau. Thấy Hai đã có mặt từ đời nào toay toáy lo công việc anh cười giả lả, nói chữa thẹn:
Chị tui coi vậy còn khỏe gớm, lần nào cũng về trước mấy em…
Chị Hai cười, trêu:
- Ừ, thì tao “thân đàn ông” nên khỏe; lại “nhà gần” nên đi nhanh…
Anh Ba hiểu ý tắt đài. Chúng tôi cũng im re, thấy mình thật có lỗi khi nghĩ tới chuyện giờ trong gia đình Hai là người già nhất, khổ nhất! Chưa hết. Có lần anh chị em ngồi lại với nhau, chị Tư than: anh chị em giờ ai công việc nấy, lại ở xa, mai kia cha mẹ già yếu, bệnh tật sợ không người chăm. Chị Hai phán, tỉnh rụi:
- Không sao. Tụi mày bận việc không chăm được thì… tao về chăm!
- Trời, vậy còn việc nhà của chị, tính sao?
- Sao trên trời, còn tính toán là chuyện… dưới đất. Làm con chuyện ấy tính không ra chẳng lẽ bỏ cha mẹ? Yên tâm, tao có cách! Tụi mày không về được cứ… tháng tháng góp tiền về tao lo! Hai cười hi hi.
Nghe Hai nói cứng, anh em chừng cũng hơi yên tâm. Cha mẹ già cả ốm đau, con cái góp tiền bạc chung lo là chuyện đương nhiên; nhưng xung phong bỏ việc về chăm, “gánh” ấy chắc chỉ mình Hai dám lãnh! Giờ thì tôi hiểu vì sao trong gia đình tuy Hai khổ nghèo, không vị thế xã hội, không được học hành tới nơi như các em nhưng tiếng nói của Hai mỗi lúc cất lên em út tuyệt không đứa nào dám cãi! Cãi làm sao được; tấm lòng thơm thảo của Hai trong gia đình suốt mấy mươi năm đâu ai còn lạ.
Mà đâu chỉ lúc sống chung, giờ nồi riêng bếp riêng, em út làm ăn đa phần khấm khá Hai vẫn không quên. Làm, thu được mớ cá mớ rau hay trái bắp củ khoai bao giờ Hai cũng nghĩ tới chuyện… đem chia, phần mang về cha mẹ, phần gửi các em. Chợt nhớ mỗi lần tôi ghé thăm chưa bao giờ Hai để tôi về tay không. Món này món khác. Không nhận Hai cũng dúi, bắt cầm cho được. Bao giờ cũng một câu cửa miệng: “Cầm đi, tao còn nhiều lắm…”. Những món quà quê giá trị tiền bạc không cao nhưng cái tình đương nhiên vô giá…
Có lần ghé chơi, tôi dại dột mở miệng khen một giò hoa lan của Hai trồng có hoa rất lạ (tôi vốn đứa mê hoa có mã số!). Chắp hít, thèm thuồng ngắm nghía. Thấy vậy Hai tức tốc lấy túi nilon trùm hoa, đem buộc lên xe máy kệ cho tôi đây đẩy từ chối. Chị có một giò duy nhất, cho em chị lấy gì chơi? Không sao, anh Hai mày hay đi rừng; ổng sẽ tìm giò khác. Rừng còn nhiều lắm.... Ép tôi nhận mà mặt chị rạng lên sung sướng như chính mình là người được tặng hoa khiến tôi rưng rưng nước mắt. Chị Hai ơi…
(Theo: báo Giác Ngộ)